Vụ sập giàn giáo khiến 6 người thương vong ở Hà Nội: Ai chịu trách nhiệm?

Ngày 13/10/2016 19:00 PM (GMT+7)

Vụ sập giàn giáo sáng nay tại Công trình chung cư cao tầng số 1 phố Giáp Nhị (28 tầng), quận Hoàng Mai, Hà Nội khiến 2 người thiệt mạng, 4 người bị thương. Vậy trách nhiệm trong sự việc này thuộc về ai?

Sáng ngày 13/10, trong lúc đang đổ bê tông tầng 6 tòa nhà 28 tầng trên đường Trương Định (Hà Nội), giàn giáo bất ngờ đổ sập khiến 2 người thiệt mạng, 4 người bị thương. Vụ việc này xảy ra vào khoảng 5h hôm nay (13/10) tại Công trình chung cư cao tầng số 1 phố Giáp Nhị (28 tầng), quận Hoàng Mai, Hà Nội.

Thực tế, tình trạng mất an toàn lao động trong các công trường xây dựng đang ngày càng gia tăng và gây thiệt hại nghiêm trọng về người. Các sự cố chủ yếu đều do hệ thống giàn giáo sử dụng trong thi công đã không đảm bảo đúng theo quy chuẩn xây dựng.

Để ngăn ngừa các sự cố tai nạn lao động trong quá trình thi công thì việc tuân thủ các yêu cầu về an toàn từ khâu thiết kế, lắp đặt đến thi công phải được thực hiện nghiêm ngặt theo quy định.

Để làm rõ trách nhiệm trong sự việc này, chúng tôi đã liên hệ với luật sư Nguyễn Anh Thơm (Văn phòng luật sư Nguyễn Anh – Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội). Luật sư Thơm cho biết, trước hết phải xác định đây là vụ tai nạn nghiêm trọng trong lĩnh vực an toàn lao động do không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện sai các quy định về an toàn lao động trong xây dựng dẫn tới làm 2 người chết, 4 người bị thương .

Vụ sập giàn giáo khiến 6 người thương vong ở Hà Nội: Ai chịu trách nhiệm? - 1

Vụ sập giàn giáo khiến 6 người thương vong.

“Trách nhiệm chủ yếu dẫn tới vụ tai nạn là do người giám sát thi công trực tiếp giám sát, chỉ đạo thi công đã không tuân thủ các quy định về an toàn lao động.

Hành vi của người giám sát có dấu hiệu Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 227 BLHS”, luật sư Thơm thông tin.

Theo luật sư Thơm, lỗi của người tư vấn giám sát trong vụ việc này là lỗi vô ý được quy định tại khoản 2 điều 10 BLHS: “Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó".

Về trách nhiệm của chủ đầu tư khi để xảy ra tai nạn nghiêm trọng nói trên, luật sự Anh Thơm cho rằng khó có căn cứ để xác định trách nhiệm chủ đầu tư. "Vệc đảm bảo an toàn lao động đã được chủ đầu tư thuê đơn vị giám sát phải chịu trách nhiệm giám sát về các biện pháp đảm bảo an toàn khi trong thi công.

Do vậy, nếu hậu quả xảy ra thì bên giám sát phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hậu quả thiệt hại do không làm đúng trách nhiệm của mình”, luật sư Thơm phận tích.

Luật sư Thơm nói thêm, đây là sự việc nghiêm trọng nên cần khởi tố vụ án hình sự để làm căn cứ xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền trong việc đảm bảo an toàn lao động trong thi công các công trình xây dựng.

Yêu cầu các chủ đầu tư, đơn vị giám sát,.. phải đảm bảo tuyệt đối theo đúng các qui chuẩn về an toàn lao động trong thi công thì công trình mới được xây dựng. Bên cạnh đó, chủ đầu tư và đơn vị giám sát thi công cần thiết phải hỗ trợ cho các nạn nhân trong vụ tai nạn lao động.

Điều 227. Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người

1. Người nào vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Là người có trách nhiệm về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.

4. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Lê Phương
Nguồn: [Tên nguồn]

Tin liên quan

Tin bài cùng chủ đề Thời sự