Sau một thời gian điều trị ung thư vú, bà L.T.N, 46 tuổi ở Hải Phòng bỗng bị sưng phù hai cánh tay như tay voi.
Được biết, cách đây 5 năm bà N. phát hiện bị ung thư vú bên phải và được chỉ định mổ. Để tránh bệnh tái phát, bà được nạo toàn bộ hạch nách trái. Tuy nhiên, sau một thời gian điều trị ung thư vú, hai tay bà bỗng sưng phù lên, ngày một đồ sộ như tay voi. Mỗi tối đi ngủ bà N. đều phải dùng dây chun bó cánh tay lại rồi treo lên cao nhằm giúp chất dịch từ cánh tay di chuyển bớt vào trong cơ thể.
TS Lê Hồng Quang, Phó trưởng khoa Phẫu thuật Vú, BV K Trung ương cho biết, không ít chị em bị ung thư vú sau khi nạo vét hạch nách thì tay phù to như trường hợp của bà N. Nhiều trường hợp ngoài phù tay, đùi của bệnh nhân cũng nứt, lở loét.
Theo thống kê tại BV K Trung ương, 15-30% chị em sau phẫu thuật ung thư vú bị biến chứng phù tay voi. Có người xuất hiện ngay nhưng cũng có trường hợp tích lũy dần sau 20-30 năm mới phát. Thậm chí có trường hợp buộc phải tháo khớp, cuộc sống bị ảnh hưởng rất nhiều.
Nguyên nhân của hiện tượng phù tay voi, theo TS Quang là điều trị ung thư vú từ trước đến nay, các bác sĩ sẽ tiến hành cắt tuyến vú và vét hạch nách. Nếu có nhiều hạch di căn thì bệnh nhân còn phải tia xạ vào vùng nách để phòng tái phát di căn. Chính việc phẫu thuật nạo vét hạch nách và tia xạ đã lấy đi những đường dẫn lưu bạch huyết từ cánh tay về tuần hoàn chung. Điều này khiến, bạch huyết ở tay dần dần ứ trệ, gây hiện tượng phù tay voi.
Tuy nhiên, TS Quang cho rằng không phải trường hợp nào cũng cần phải vét hạch nách trong khi tỷ lệ bị biến chứng tay voi sau khi nạo vét là rất lớn. Với trường hợp hạch nách đã di căn việc nạo vét hết là cần thiết nhưng với trường hợp chưa thì chỉ cần lấy một hạch duy nhất gọi là hạch cửa hay hạch lính gác- hạch có nguy cơ di căn cao nhất.
Nhiều trường hợp bị biến chứng do ung thư vú (Ảnh minh họa)
Làm thế nào để vừa bảo toàn tuyến vú lại hạn chế tỷ lệ bị phù tay voi là cả vấn đề khiến các nhà chuyên môn đau đầu. Trước thực tế này, TS Quang cùng các đồng nghiệp đã áp dụng thành công phương pháp sinh thiết hạch cửa. Bởi qua quá trình nghiên cứu, cho thấy hạch cửa ( hạch lính gác) có nguy cơ di căn cao nhất. Nếu lấy được hạch này ra xét nghiệm cho thấy chưa có di căn hạch thì có nghĩa là cách hạch khác khả năng di căn hầu như không có. Vì thế sẽ không cần nạo vét hạch nách, khi không cần nạo vét hạch nách thì nguy cơ biến chứng to tay, tê bì vùng cách tay, thậm chí liệt cánh tay - biến chứng do cắt hạch nách sẽ phòng ngừa được.
"Nếu xét nghiệm hạch này cho thấy chưa có di căn thì khả năng di căn của các hạch khác hầu như không có. Vì thế sẽ không cần nạo vét hạch nách, đỡ thời gian phẫu thuật, chi phí, tránh nguy cơ biến chứng tay voi, tê bì vùng cách tay, thậm chí liệt cánh tay...", tiến sĩ Quang nói.
Trước thực tế này, TS Quang cùng các đồng nghiệp đã áp dụng thành công phương pháp sinh thiết hạch cửa. Với kỹ thuật mới tại Bệnh viện K, bệnh nhân sẽ tránh được nguy cơ biến chứng phù tay voi, tê bì vùng cách tay, thậm chí liệt cánh tay.
Theo đó, các bác sĩ sẽ tiêm chất chỉ thị màu xanh metylen vào vùng xung quanh khối u vú, chất chỉ thị màu xanh theo đường bạch huyết về hạch cửa, rồi lấy ra xét nghiệm. Cách thứ 2 là tiêm chất đồng vị phóng xạ khi vào phòng mổ, dung đầu dò tia gamma quét trong vùng nách sẽ phát hiện được hạch cửa, lấy hạch xét nghiệm dưới kính hiển vi.
Để phát hiện hạch này có 2 cách: Thứ nhất là tiêm chất chỉ thị màu xanh metylen vào vùng xung quanh khối u vú, chất chỉ thị màu xanh sẽ theo đường bạch huyết về hạch cửa. Thứ 2 là tiêm chất đồng vị phóng xạ, dùng đầu dò tia gamma quét trong vùng nách sẽ phát hiện được hạch cả.
“Đây là kỹ thuật mới nên tâm lý người bệnh và ngay cả các sĩ còn rất băn khoăn. Nhưng kỹ thuật này đã được ứng dụng tại nhiều nước trên thế giới từ hơn 10 năm nay. Kết quả các nghiên cứu cũng cho thấy hạch cửa mang tính đại diện, phản ánh đúng tình trạng di căn. Những hạch âm tính thì việc vét hay không vét không khác nhau về tiên lượng. Tuy nhiên, phương pháp sinh thiết hạch cửa này chỉ áp dụng khi phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, chưa có di căn”, TS Quang nói.
Ung thư vú đã vượt ung thư cổ tử cung, đứng đầu các loại ung thư ở nữ tại Việt Nam. Đây không chỉ là nỗi lo của phụ nữ lớn tuổi mà ở cả người trẻ. Những phụ nữ đã có chị hoặc mẹ bị ung thư vú thì nguy cơ mắc cao gấp 10 lần người khác. Ngoài ra, những phụ nữ 35-50 tuổi chưa bao giờ sinh đẻ, người có con đầu lòng sau 30 tuổi, người có chế độ ăn nhiều mỡ động vật, uống nhiều rượu hút thuốc lá và béo phì cũng dễ bị ung thư vú.
Để phát hiện sớm ung thư vú, TS Quang khuyến cáo chị em phụ nữ nên tự “khám” vú, nếu thấy có hiện tượng bất thường như có u, cục, nắn thấy đau … cần phải đi khám ngay cơ sở y tế chuyên khoa. Ngay cả khi không có các dấu hiệu bất thường chị em nên đi khám sang lọc ung thư vú thường quy 6 tháng/lần.