Những ngày lập thu, bộ sách Hà Nội nửa đầu thế kỉ XX của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn đã ra mắt độc giả Việt Nam. Đây là bộ “Hà Nội sử” mà bất kỳ ai muốn hiểu về Hà Nội đều phải đọc.
Bộ sách Hà Nội nửa đầu thế kỉ XX là tâm huyết được nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn ấp ủ và chuẩn bị trong suốt cuộc đời dạy lịch sử, nhưng mãi đến khi về hưu năm 1975 mới có điều kiện thực hiện. Ròng rã nhiều năm liền lao động vất vả và nghiên cứu với tất cả nhiệt tâm của một nhà nghiên cứu đích thực, đến năm 1985 bản thảo bộ sách Hà Nội nửa đầu thế kỉ XX mới hoàn thành và xuất bản lần đầu năm 1995.
Thực ra, ý tưởng giản dị ban đầu của tác giả chỉ là “ghi lại quang cảnh phố xá cũ của Hà Nội còn sót lại, nhắc đến những điều còn ghi nhớ, với mục đích chụp ảnh lại những cái đang phai mờ, đang mất đi, hình ảnh dáng dấp đặc điểm của mỗi phố phường Hà Nội mang những tên gọi độc đáo”. Từ đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn dần bắt tay vào đọc tài liệu viết trong các thư viện, đi điều tra thực địa, phỏng vấn hàng trăm người để sưu tầm tư liệu.
Nhà giáo, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn từng chia sẻ: “Tôi đã chọn chủ đề ‘Hà Nội nửa đầu thế kỉ XX’, Hà Nội mà tôi đi điều tra tìm hiểu đây là Hà Nội của thời Tự Đức để lại (những năm thập niên 90 của thế kỉ XIX) và Hà Nội của thời thực dân Pháp thống trị một nửa thế kỷ (cụ thể là từ năm 1895 đến năm 1945), thời kỳ mà Hà Nội chịu sự đổi lốt, quá trình không khỏi có những sự việc đau khổ, mất mát. Song theo tôi nghĩ, nó còn có một mặt khác, đó là giai đoạn đầy thử thách đối với người Hà Nội, với dân tộc ta vốn vẫn có tinh thần bất khuất bền bỉ, tinh thần quật cường của một dân tộc liên tục phải đấu tranh với những sức mạnh gian tà hung bạo lớn hơn ta gấp bội. Cha ông ta thuở trước đã từng ‘dựng nước giữ nước’ gian lao, ta kế tục cái truyền thống đó thế nào để vẫn tự hào mình là người Việt Nam, là người thủ đô Hà Nội.”
“Tôi đã đọc liên tục, mê mải. Vừa đọc vừa ghi. Có những sự việc đã được biết, đọc lại để xác minh cũng không thừa; có những sự kiện đến nay tôi mới phát hiện thấy. Thời gian 1977-1979 tình hình trong nước có vẻ gay go, Trung Quốc đe dọa xâm lược và đã đem quân đánh vào toàn tuyến biên giới phía Bắc, nhiều sách hiếm quý phải đưa đi sơ tán khỏi thư viện, báo chí cũ phục vụ độc giả chỉ có microfilm.”
“Đi săn tài liệu thật giống như anh chàng đi săn con chim, đi câu con cá, có phải đúng cái ngày ‘gặp gái’, cũng như có ngày gặp may không. Công phu chuẩn bị bản đồ, giấy tờ, tư liệu, đạp xe đường dài, đến nơi lại không gặp người định gặp. Đi các làng ngoại thành mới mất công chứ: họ đi họp, đi chơi vắng nhà. Bực mình nhất là gặp những người mình đặt nhiều hy vọng, mà khi gặp thì có người không chịu nói: ‘Bây giờ chuyện bát gạo mớ rau no cái bụng đã, rỗi hơi đâu mà nhắc lại chuyện đời xưa!’ Có người lại quá cảnh giác: ‘Thời buổi này tin ai được. Dò la chuyện ông cha nhà người ta để làm gì?’
Một điều đáng quan tâm là nhiều khi thấy mình rõ ràng là chạy đua với thời gian. Hầu hết những người mình tìm hỏi đều trên 70 tuổi, có người đã ngoài 90, cái tuổi ‘cổ lai hi’, không tìm hỏi nhanh, năm tháng của họ như đếm trên đầu ngón tay, họ mất đi thì còn đâu nhân chứng. Những cảnh ‘ngọn đèn trước gió’ thật đáng ngại... Thật là chạy đua với Thần Chết chứ không còn chạy đua với thời gian. Nhiều cụ người ta giới thiệu cho tôi, tìm đến nơi thì các cụ không còn nữa. Như sư bà chùa Thạch Khối Bến Nứa, biết từ khi Tây xây móng cầu Sông Cái, chỗ đầu Hàng Đậu, Bến Nứa, bên ngoài chợ Đồng Xuân thế nào, pho sử sống về Hà Nội đó, cụ đã đem về thế giới bên kia.”
Ảnh chụp chợ Đồng Xuân ngày giáp Tết 1929 (Nguồn: Internet)
Hai tập Hà Nội nửa đầu thế kỉ XX được chia làm 6 quyển, dựa trên các khu vực của thành phố. Mỗi quyển có một bài mở đầu nêu những đặc điểm riêng của khu vực nói trong tập đó, rồi lại chia tiếp thành các phần, chương theo đặc điểm địa lý và dân cư. Sách có phụ lục Về tên phố của Hà Nội, Danh sách Toàn quyền Đông Dương từ 1884 đến 1945 và Những đơn vị hành chính của Hà Nội từ sau 1945, bản đồ và các chỉ dẫn khác phục vụ cho việc tra cứu.
Bộ sách Hà Nội nửa đầu thế kỉ XX từng được trao tặng Giải thưởng Thăng Long năm 1996.