Do tiêm vào vú đòi hỏi một khối lượng lớn silicone lỏng vì vậy các biến chứng xuất hiện rất đa dạng.
Đặc điểm lâm sàng
Từ các phản ứng tại chỗ cấp tính đến di chứng muộn, từ đặc ứng da (phản ứng dị ứng lạ ở da) đến tử vong sau khi tiêm, từ di chứng tại vú đến các di chứng ở các cơ quan xa hơn do quá trình di tản của hạt silicone. Tính phức tạp của các dấu hiệu lâm sàng càng rõ nét khi tiến triển và diễn biến bệnh âm thầm và kéo dài trong nhiều năm.
Tử vong ngay sau tiêm do sốc phản vệ cũng có thể gặp. Đây là trường hợp xảy ra tức thì với các dấu hiệu của suy hô hấp và tuần hoàn. Biến chứng nặng nhất là tử vong đã được ghi nhận do phản ứng sốc nhiễm trùng, nhiễm độc sau tiêm silicone dạng lỏng vào vú.
So với việc tiêm silicone lỏng vào các vùng khác của cơ thể, các biến chứng như thuyên tắc phổi, phù phổi xung huyết, nhồi máu tim, gan, thận hay não cũng thường gặp và nhắc tới trong nhiều nghiên cứu trên thế giới. Các biến chứng này thường dẫn tới tử vong muộn hơn. Nếu điều trị kịp thời chắc chắn sẽ dẫn tới xơ hóa phổi, viêm phổi…
Sự lắng đọng của các hạt silicone theo đường máu có thể để lại các u hạt silicone ở gan, thận, não, nếu bệnh nhân được cứu sống, đây cũng có thể là nguyên nhân tử vong nếu bệnh nhân chịu một phẫu thuật ngẫu nhiên tại cơ quan đó.
Biến chứng nâng ngực có thể xuất hiện muộn nên người bệnh thường chủ quan (Ảnh minh họa).
Các dấu hiệu tại chỗ tiêm silicone lỏng ở vú rất khác nhau tùy vào loại silicone, khối lượng silicone được tiêm, cách tiêm vào vú và phản ứng của chính cơ thể bệnh nhân đối với silicone. Thời gian trung bình để xuất hiện các triệu chứng nặng khoảng 9 năm theo các nghiên cứu tại Mỹ.
Các triệu chứng tại chỗ có thể thoáng qua ngay sau khi tiêm như ban đỏ, xung huyết tại vú. Sự xuất hiện các hạt sần dưới da thường muộn hơn so với dấu hiệu đau. Trên lâm sàng các tổn thương u hạt silicone thường cứng, chúng có thể di động hay tạo thành từng mảng cứng chắc ở một phần hay toàn bộ tuyến vú. Đau tại một số vùng của tuyến vú là dấu hiệu báo trước cho việc hình thành các u hạt tại vú.
Đau dai dẳng và có thể kết hợp một vùng da bị đổ và viêm tấy. Nếu bệnh nhân lại được điều trị kháng sinh hay liệu pháp corticoid thì bệnh cảnh lâm sàng sẽ mờ nhạt và phức tạp hơn. Trong một số trường hợp, sự di tản của hạt silicone lên lớp nông của da vú thì các triệu chứng sẽ diễn biến hoàn toàn khác.
Các biểu hiện viêm da rất rõ nét, các hạt sần xuất hiện rõ và dẫn đến đỏ da, giãn mạch tại chỗ, có thể vỡ nốt sần ra ngoài và hình thành các ổ hoại tử, đường dò lâu liền và tạo những mảng cứng xung quanh đường dò. Việc điều trị triệt để các đường dò rất khó khăn.
Với đa số các trường hợp, hình thành của các hạt silicone cùng sự xơ hóa tuyến vú sẽ dẫn tới sự biến dạng về hình thể của bầu vú, thậm chí bầu vú có thể teo quắt thành một khối và cứng như đá. Bệnh nhân luôn phải chịu tình trạng đau dai dẳng và không có thuốc giảm đau nào giải quyết được. Thời gian dẫn đến biến chứng này có thể kéo dài từ 15 – 18 năm.
Sự di tản của silicone lỏng từ vú có thể tới nách, cổ, thành bụng và bẹn. Những nơi silicone tập trung có thể gây ra các rối loạn tại chỗ như xơ cứng da, viêm da mạn tính, viêm và rối loạn hệ thống bạch mạch của tay hay chân mà biểu hiện là phù bạch mạch.
Đặc điểm cận lâm sàng
- Hình ảnh siêu âm: Siêu âm tuyến vú là một trong những thăm dò đơn giản nhưng có thể xác định sự có mặt của silicone tự do và các u hạt silicone trong mô vú. Trên hình ảnh siêu âm, các tổn thương u hạt thường có dạng giảm âm (giống vú thoái hóa mỡ) nhưng có kèm bóng cản làm khó quan sát các tổn thương sâu. Siêu âm cũng để xác định mức độ di chuyển của silicone hay xác định giới hạn lan tỏa của silicone quanh vú.
Xơ hóa phổi, viêm phổi mạn hay u gan cũng có thể gặp ở một số bệnh nhân (Ảnh minh họa).
- Hình ảnh X-quang vú: Hình ảnh X-quang tuyến vú ở 3 tư thế cho phép thăm dò toàn bộ tuyến vú. Trên XQ, các tổn thương u hạt silicone là các hình mờ có bờ bao quanh rõ, rải rác khắp vú, chúng cũng có thể dính vào nhau thành từng mảng.
Do silicone lỏng được tiêm một cách trực tiếp, các u hạt dị vật hình thành rải rác khắp mô tuyến, đồng thời silicone gây ra các phản ứng mô xung quanh làm các mô tuyến viêm xơ. Vì vậy rất khó xác định các tổn thương khác của mô tuyến, đặc biệt các tổn thương ở lớp sâu.
- Hình ảnh MRI: Chụp MRI là thăm dò có hiệu quả nhất để chẩn đoán xác định các loại chất liệu làm đầy, xác định vị trí và độ tập trung của silicone trong tuyến vú và mô xung quanh vú, ngoài ra có khả năng chẩn đoán sớm nhất các tổn thương ung thư phối hợp.
Xem thêm: Tai hại tiêm Silicone lỏng