Nếu trả lương chậm 15 ngày trở lên, doanh nghiệp phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất ngân hàng.
Theo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương vừa được Chính phủ ban hành, doanh nghiệp sẽ phải trả bù thêm tiền cho người lao động nếu trả lương chậm.
Cụ thể, tiền lương ghi trong hợp đồng lao động do người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động để thực hiện công việc nhất định, bao gồm mức lương theo công việc, hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác.
Mức lương đối với công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động và thời gian làm việc bình thường (không bao gồm khoản tiền trả thêm khi người lao động làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm) không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.
Nghị định nêu rõ, người lao động hưởng lương tháng được trả lương một tháng/lần, hoặc nửa tháng/lần. Thời điểm trả lương do hai bên thỏa thuận và được ấn định vào một thời điểm cố định trong tháng.
Doanh nghiệp phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất ngân hàng nếu trả lương chậm 15 ngày trở lên (Ảnh minh họa)
Nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương. Khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không quy định trần lãi suất thì được tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng của ngân hàng thương mại, nơi doanh nghiệp, cơ quan mở tài khoản giao dịch thông báo tại thời điểm trả lương.
Nếu thời gian trả lương chậm dưới 15 ngày thì không phải trả thêm.
Theo Nghị định, tiền lương làm thêm giờ được tính theo đơn giá tiền lương, hoặc tiền lương thực trả theo công việc đang làm: Ngày thường, ít nhất bằng 150%; ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%; ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300%, chưa kể tiền lương ngày lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương theo quy định của Bộ luật Lao động đối với người lao động hưởng lương theo ngày.
Cũng theo Nghị định Tiền lương làm căn cứ để trả cho người lao động trong những ngày chưa nghỉ hằng năm, hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm được quy định như sau:
Đối với người lao động đã làm việc đủ 6 tháng trở lên là tiền lương bình quân ghi trong hợp đồng lao động của 6 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc, bị mất việc làm. Đối với người lao động chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm vì các lý do khác là tiền lương bình quân ghi trong hợp đồng lao động của 6 tháng liền kề trước khi người sử dụng lao động tính trả bằng tiền những ngày chưa nghỉ hằng năm.
Đối với người lao động có thời gian làm việc dưới 6 tháng là tiền lương bình quân ghi trong hợp đồng lao động của toàn bộ thời gian làm việc. Tiền lương tính trả cho người lao động trong những ngày chưa nghỉ hằng năm, hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm là tiền lương quy định ở trên chia cho số ngày làm việc bình thường theo quy định của người sử dụng lao động của tháng trước liền kề trước thời điểm người sử dụng lao động tính trả, nhân với số ngày chưa nghỉ hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm.