Chiến lược pháp lý chủ quyền trên Biển Đông của Trung Quốc đang bị chi phối bởi những tham vọng đầy mâu thuẫn khi Bắc Kinh vừa muốn duy trì sự ổn định trong khu vực vừa muốn tăng cường quyền kiểm soát tại vùng biển này.
Đây là nhận định của tác giả Sean Mirski trong loạt bài viết đánh giá chiến lược pháp lý của các nước có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông được tạp chí National Interest của Mỹ đăng tải. Bài viết được xuất bản sau sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan dầu nước sâu Hải Dương-981 trong vùng biển thuộc Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, chỉ cách đảo Lý Sơn 119 hải lý gần quần đảo Hoàng Sa.
Ông Mirski hiện là sinh viên năm thứ hai Trường Luật Harvard – nơi ông làm Trưởng nhóm phụ trách mục Tòa án tối cao của tờ Bình luận Luật pháp Harvard (Harvard Law Review). Ông cũng là đồng tác giả của cuốn "Crux of Asia: China, India and the Emerging Global Order" (tạm dịch: Trọng tâm của Châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ và trật tự mới đang lên).
"Những bãi đá nam châm"
Theo tác giả Mirski, từ nhiều thế kỷ trước, ngư dân Trung Quốc đã gọi các hòn đảo trên Biển Đông là "những bãi đá nam châm". Cái tên này muốn ám chỉ tới một thế lực kỳ bí lôi kéo các con tàu có số phận không may mắn tới những bãi cát ngầm nơi đây.
Tàu Trung Quốc ngang nhiên ngăn cản hoạt động tàu bảo vệ chủ quyền của Việt Nam gần khu vực hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trên Biển Đông.
Tuy nhiên, trong 60 năm gần đây, Biển Đông lại trở thành trung tâm của sự rối loạn xuất phát từ chính sách chính trị từ các siêu cường, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và trữ lượng dầu mỏ dồi dào. Biển Đông hiện còn là khu vực tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa một số nước trong khu vực.
Trong đó, Trung Quốc là trung tâm của các tranh chấp. Với vị thế là một quốc gia rộng lớn và hùng mạnh nhất, Trung Quốc cũng thường xuyên đưa ra những yêu sách mạnh mẽ nhất. Song, lối hành xử của Bắc Kinh không phải lúc nào cũng phản ánh sức mạnh và tham vọng ngày một lớn. Thay vào đó, chiến lược của Trung Quốc mang tính phức tạp hơn và chủ yếu được hình thành từ tham vọng của Bắc Kinh khi vừa muốn duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực mà vẫn tiếp tục đưa ra những yêu sách bành trướng.
Tình thế khó xử này đã khiến Trung Quốc chú trọng vào việc trì hoãn giải quyết xung đột. Đây cũng là minh chứng rõ ràng nhất trong chiến lược pháp lý của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chiến lược này lại đang có xu hướng không còn phù hợp với tình hình hiện tại và Bắc Kinh đang trở thành nạn nhân từ chính sự thành công do mình tạo ra.
Bởi hiện nay, các nước có cùng tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông đã nhận thức rõ hơn về tình thế nguy hiểm khi đi theo quy tắc của Trung Quốc. Do đó, các nước đã chủ động hơn trong việc tìm ra phương kế đối phó với chiến lược trì hoãn của Trung Quốc cũng như buộc Bắc Kinh phải đối diện với tình thế tiến thoái lưỡng nan hiện nay. Và chính sự đáp trả của Trung Quốc đã gây ra căng thẳng trên khắp khu vực Biển Đông. Khi các cuộc tranh chấp leo thang, Trung Quốc dường như chịu áp lực buộc phải từ bỏ chiến lược trì hoãn và tìm kiếm giải pháp xử lý nhanh chóng xung đột. Theo đó, minh chứng rõ nhất là những diễn biến gần đây trên Biển Đông.
Chiến lược trỗi dậy một cách hòa bình
Tình thế tiến thoái lưỡng nan hiện nay của Trung Quốc được thể hiện rõ nhất qua các lợi ích chiến lược đầy mâu thuẫn. Trước hết, Trung Quốc phải tìm cách duy trì tốc độ tăng trưởng trong nhiều năm liên tiếp.
Theo số liệu thống kê, trong 35 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Trung Quốc đạt gần 10%/năm. Thậm chí, trong khoảng thời gian này, nền kinh tế Trung Quốc đã ghi nhận 5 lần tăng trưởng gấp đôi. Theo dự báo, nền kinh tế của Trung Quốc sẽ soán ngôi vị số 1 thế giới của Mỹ trong tương lai gần.
Tuy nhiên, muốn duy trì tăng trưởng, Trung Quốc cần một châu Á ổn định và hòa bình. Đây là lý do khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc liên tục nhắc tới những chính sách mang tên "sự trỗi dậy hòa bình" hay "phát triển hòa bình".
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Trung Quốc gần 10%/năm.
Chính sách này được thể hiện qua việc trong vòng 30 năm qua, Bắc Kinh đã dàn xếp hàng loạt tranh chấp biên giới; thi hành chính sách ngoại giao khéo léo trong khu vực; tích cực tham gia các tổ chức chính phủ trong khu vực lẫn quốc tế; cũng như ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương đôi bên cùng có lợi trên toàn thế giới. Tóm lại, Trung Quốc đang cố gắng trở thành hình mẫu trong khu vực để phục vụ cho tham vọng phát triển kinh tế của mình.
Kiểm soát Biển Đông
Trong khi những tham vọng lâu dài buộc Bắc Kinh phải biết cách kiềm chế thì những mục tiêu trước mắt như tranh giành chủ quyền trển Biển Đông, đã buộc quốc gia này phải rẽ theo hướng khác. Theo mong muốn của Bắc Kinh, Trung Quốc sẽ trở thành chủ nhân không tranh cãi trên Biển Đông.
Giành quyền kiểm soát Biển Đông nghĩa là Trung Quốc có thể xử lý được các mối đe dọa an ninh quốc gia cũng như thúc đẩy những mục tiêu kinh tế liên quan tới an ninh năng lượng và ưu tiên xuất khẩu. Ngoài ra, Biển Đông còn là vùng biển có trữ lượng cá, dầu mỏ và khí tự nhiên dồi dào đủ khiến mọi quốc gia kế cận thèm muốn.
Trong khi đó, tranh chấp hàng hải lại đang có xu hướng gắn chặt với chủ nghĩa dân tộc tại Trung Quốc. Do dó, Biển Đông không chỉ mang ý nghĩa chủ quyền lãnh thổ, mà còn là thể diện của quốc gia. Ngay cả khi giới lãnh đạo Trung Quốc muốn từ bỏ tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông, họ sẽ vấp phải sự chỉ trích từ trong nước. Thay vì thỏa hiệp, áp lực từ chủ nghĩa dân tộc đã khiến Bắc Kinh phải hành xử quả quyết hơn với các nước có tranh chấp chủ quyền.
Tình thế tiến thoái lưỡng nan của Trung Quốc
Những lợi ích chiến lược của Trung Quốc hiện thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Thứ nhất, Bắc Kinh muốn giải quyết tranh chấp trên Biển Đông một cách nhanh chóng và hòa bình nhất có thể. Song, trong những năm gần đây, Trung Quốc lại nổi lên với danh hiệu là một quốc gia hiếu chiến khiến mối quan hệ với các quốc gia trong khu vực ngày càng trở nên nguội lạnh.
Tuy nhiên, Trung Quốc lại không muốn mất quyền kiểm soát vùng biển chiến lược quan trọng - Biển Đông. Nói cách khác, Trung Quốc đang cố gắng giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông thông qua thỏa hiệp hoặc tiến hành xâm lược. Nhưng giới lãnh đạo Bắc Kinh nhận thấy cả hai phương án này đều không khả thi.
Thay vì cố gắng giải quyết xung đột, Bắc Kinh đã né tránh và áp dụng chiến lược trì hoãn. Trung Quốc đã tìm cách duy trì khả năng kiểm soát những yêu sách của mình mà không khiến các quốc gia tranh chấp khác tỏ ra lo ngại. Do đó, Trung Quốc đã bảo vệ các yêu sách của mình bằng việc cố gắng tránh làm thay đổi hiện trạng trong khu vực.
Chiến lược pháp lý của TQ trong tranh chấp trên Biển Đông
Chiến lược pháp lý của Trung Quốc là sự kết hợp một cách thận trọng giữa những tuyên bố pháp lý và chiến thuật đàm phán. Tâm điểm trong chiến lược pháp lý của Trung Quốc là những tuyên bố nhập nhằng đầy mơ hồ. Thậm chí, sau nhiều thập kỷ tranh cãi, phạm vi tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc vẫn không hề rõ ràng. Trong thực tế, chỉ vài năm gần đầy, Trung Quốc mới thực sự khuấy đảo khu vực Biển Đông thông qua yêu sách “đường chín đoạn”.
Yêu sách "đường chín đoạn" của Trung Quốc bao trùm gần 90% diện tích Biển Đông.
Theo đó, bản đồ “đường chín đoạn” bao quát khu vực bờ biển của Trung Quốc và gần như toàn bộ khu vực Biển Đông. Theo các chuyên gia, một điều rõ ràng là Trung Quốc muốn tuyên bố chủ quyền với mọi quần đảo nằm trong ranh giới “đường chín đoạn”. Song, không rõ Trung Quốc có ý định tuyên bố chủ quyền với cả vùng biển được bao quanh bởi “đường chín đoạn” vô lý này hay không
Yêu sách trên của Trung Quốc đã vi phạm một cách trắng trợn luật pháp quốc tế. Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), các quốc gia có quyền kiểm soát vùng biển nội địa trong một khoảng cách nhất định tính từ lãnh thổ có chủ quyền. Điều này đồng nghĩa với việc Bắc Kinh không thể đòi hỏi chủ quyền hợp pháp với phần lớn vùng biển nằm trong yêu sách “đường chín đoạn”.
Đặc biệt, tại Mỹ, nhiều chuyên gia đã yêu cầu Trung Quốc đưa ra lời giải thích về bản đồ “đường chín đoạn”. Song Trung Quốc chưa bao giờ có lời giải thích rõ ràng về yêu sách này. Thay vào đó, chính phủ Trung Quốc đã chủ ý áp dụng chính sách luật pháp mơ hồ trong các tuyên bố chủ quyền. Sự "mơ hồ chiến lược" này là một phần trong chiến lược lớn của Trung Quốc – chiến lược trì hoãn.
Theo đó, “đường chín đoạn” đã tạo ra một không gian pháp lý giải thích rộng hơn cho các yêu sách của Trung Quốc trong tương lai, mà không buộc quốc gia này phải diễn giải rõ ràng ngay lúc này. Mặc dù, vấp phải sự chỉ trích mạnh mẽ của Mỹ nhưng Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận. Đây là bằng chứng cho thấy Trung Quốc vẫn ngập ngừng trong việc lựa chọn một trong hai chính sách hoặc thỏa hiệp hoặc xâm lược để giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông.
Tuy nhiên, chiến lược trì hoãn cũng đang ảnh hưởng đến cách thức Trung Quốc thương lượng các yêu sách về pháp lý.
Trước hết, Trung Quốc cố gắng né tranh giải quyết xung đột. Về lý thuyết, Trung Quốc đã chính thức cam kết tham gia tiến trình giải quyết xung đột một cách hòa bình. Song thực tế, Bắc Kinh lại không ngừng cổ vũ cho chính sách "cùng phát triển", để các bên có tranh chấp chủ quyền trì hoãn việc giải quyết xung đột cho đến khi các điều kiện “chín muồi”. Cho tới lúc đó, tất cả các bên sẽ cùng hợp tác để phát triển các nguồn tài nguyên trên Biển Đông.
Mặc dù, phương pháp này của Trung Quốc không lôi kéo được các nước khác, nhưng nó vẫn cho phép quốc gia này tránh được tình thế tiến thoái lưỡng nan trong khi vừa thúc đẩy hòa bình mà vẫn không ngừng khai thác nguồn tài nguyên biển và duy trì tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông.
Một chiến thuật đàm phán khác là việc Bắc Kinh luôn yêu cầu giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông dựa trên con đường song phương. Theo đó, Trung Quốc muốn tiến hành đàm phán tay đôi chứ không phải là đa phương. Bởi Trung Quốc có thể dễ dàng dùng sức mạnh của mình để áp đảo đối phương khi tiến hành đàm phán song phương. Ngoài ra, đàm phán song phương còn đem lại lợi ích quan trọng hơn giúp Bắc Kinh kiểm soát tốc độ đàm phán.
Trong khi đó, các cuộc đàm phán đa phương lại giúp các bên tranh chấp dễ dàng hợp lực với nhau để buộc Trung Quốc phải hành động. Thậm chí, dù không thể ngăn các bên có tranh chấp thỏa thuận riêng, Trung Quốc vẫn có thể cản trở tiến trình thương lượng bằng cách thuyết phục từng quốc gia và lợi dụng sự chia rẽ nội bộ.