Những món ăn có bề dày lịch sử lâu đời xuất hiện và phát triển cùng với sự phát triển của loài người.
Ngũ cốc đã được tìm thấy trong các ngôi mộ ở Ai Cập, hài cốt 5.000 năm tuổi ở Phần Lan và một địa điểm ở Israel có niên đại 23.000 năm. Gần đây, một bức tranh khảm mô tả một bữa ăn bao gồm pizza (chính xác hơn là một loại bánh mì dẹt với các nguyên liệu bên trên) đã được phát hiện trong đống đổ nát của Pompeii. Thức ăn không chỉ để sinh tồn. Việc tạo ra các món ăn là để thể hiện bản thân, gia đình, cộng đồng và trong một số trường hợp là địa vị xã hội.
Socola, khoảng 1500-400 trước Công nguyên
Socola là một trong những món ăn có lịch sử lâu đời bậc nhất trên thế giới. Cây cacao, được người Maya, Aztec và Toltec trồng lần đầu tiên, ban đầu được sử dụng để làm đồ uống socola bằng hạt ca cao. Đồ uống được sử dụng theo nghi lễ hoặc làm thuốc. Đối với người Maya, chocolhaa hay "nước đắng" là thức uống dành riêng cho những người có cấp bậc cao hoặc được trao cho các chiến binh trước trận chiến để tiếp thêm sức mạnh cho họ.
Socola đã đến Tây Ban Nha vào những năm 1500. Món đồ uống có tên gọi xocolatl được làm ngọt bằng đường, quế và đôi khi là vani và dùng khi còn ấm. Thức uống này được yêu thích ở các tòa án Tây Ban Nha.
Đến thế kỷ 17, cacao mới đến được các cảng châu Âu khác. Với món quà cưới là socola của Anna nước Áo cho vua Pháp, Louis XIII vào năm 1615, socola đã được du nhập tại Pháp. Năm 1650, cacao nóng du nhập vào Anh. Thức uống này vẫn được coi là xa xỉ cho đến những năm 1800 với sự ra đời của bột cacao và thanh socola vào năm 1830 ở Anh.
Cà ri Ấn Độ, khoảng 2200-2500 trước Công nguyên
Cà ri, có nguồn gốc từ "kari" trong tiếng Tamil, đã trở thành một cụm từ phổ biến cho một món ăn Ấn Độ, Caribe hoặc Thái Lan có nước xốt làm từ các loại thịt và gia vị, thường được ăn cùng cơm. Cà ri như một món ăn ở Ấn Độ bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ 17 sau khi các thương nhân người Anh bắt đầu gọi hầu hết các món ăn ở Ấn Độ là "cà ri".
Tuy nhiên, món thịt tẩm gia vị sốt có niên đại xa hơn khoảng 4.000 năm sau những cuộc khai quật của người Indus ở Mohenjo-daro, Pakistan. Trong tiếng Ấn Độ, "cà ri" là một từ được Anh hoá, ám chỉ món ăn chứ không phải gia vị. Ở Ấn Độ, mỗi món ăn đều có tên riêng dựa trên gia vị và hương liệu, chẳng hạn như vindaloo, tikka masala hoặc korma.
Tamales, khoảng 5000 năm trước Công Nguyên
Tamales - những bó thịt thơm ngon được bọc trong masa - có lịch sử lâu đời có niên đại hơn 10.000 năm. Tamales là một loại thực phẩm giàu protein, dễ di chuyển được binh lính và thợ săn mang theo.
Để nấu món tamales, các gia đình cùng nhau làm món ăn theo mẻ lớn. Ai cũng có thể mang về nhà để biếu bạn bè hoặc để dành và sử dụng suốt thời gian còn lại trong năm. Người đầu bếp và các thế hệ sau phải xay ngô bằng tay, sau đó trộn với mỡ lợn. Tamales truyền thống được làm từ thịt lợn, thịt gà hoặc thịt bò xé nhỏ với đậu và cơm.
Ngoài ra còn có bánh tamales ngọt. Kết hợp đường, quế, bơ và vani vào bột masa, sau đó thêm sốt caramel với các loại hạt, mứt trái cây với phô mai kem hoặc nhân bánh trái cây. Tất cả những lựa chọn này tạo nên món tráng miệng thơm ngon lạ thường.
Món hầm Lưỡng Hà, khoảng năm 2140 trước Công nguyên
Một trong những công thức nấu món hầm cổ xưa khác trên thế giới, món thịt cừu hầm của người Babylon, đã được giải mã từ các tấm bảng của người Sumer vào năm 2140 trước Công nguyên. Những tấm bảng này được viết bằng tiếng Akkadian và được coi là công thức viết cổ nhất được biết đến.
Súp xương của Trung Quốc là bát hoặc nồi súp lâu đời nhất được biết đến. Hài cốt được tìm thấy trong một ngôi mộ ở Trung Quốc có niên đại 2.400 năm tuổi. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một chiếc nồi nhỏ bằng đồng khi khai quật một ngôi mộ để dọn đường cho việc mở rộng sân bay ở Tây An. Phần nước dùng và xương còn sót lại đã bị oxy hóa bên trong. Các nhà khoa học đã có thể xác nhận nội dung bên trong, khiến món súp 2.400 năm tuổi này trở thành món súp nước hầm xương đầu tiên của Trung Quốc được ghi nhận và vẫn được nấu cho đến ngày nay.
Trong những năm gần đây, xu hướng thực phẩm đã chứng kiến sự trỗi dậy của món súp xương hoặc nước luộc xương nhờ kết cấu thơm ngon, mượt mà, hương vị đậm đà và những lợi ích cho sức khỏe.
Cơm, khoảng năm 4530 trước Công nguyên
Gạo là nguồn thực phẩm được thuần hóa đã có từ nhiều thế kỷ trước. Các cuộc khai quật ở Ấn Độ đã tìm thấy bằng chứng về việc trồng lúa có niên đại khoảng 4530 năm trước Công nguyên. Các học giả khác khẳng định bằng chứng về việc trồng lúa lần đầu tiên được tìm thấy ở Trung Quốc, có niên đại từ năm 2800 trước Công nguyên. Dù thế nào đi nữa, gạo đã là một phần trong chế độ ăn uống của chúng ta trong một thời gian rất dài trên khắp thế giới.
Cơm thập cẩm là một món cơm được nấu với nước dùng hoặc nước kho, gia vị và các nguyên liệu khác như thịt hoặc rau. Bằng chứng đầu tiên được ghi nhận về món cơm thập cẩm có từ thời Hy Lạp, nơi nó được Archestratus đề cập đến trong cuốn sách dạy nấu ăn của ông. Thực tế có rất nhiều loại cơm thập cẩm, mỗi loại đều có những biến thể thơm ngon riêng phù hợp với các vùng ở Trung Đông, Châu Âu và Châu Á.
Bia, khoảng năm 3500 trước Công nguyên
Với thị trường bán lẻ trị giá hơn 115 tỷ USD ở Hoa Kỳ (thông qua Hiệp hội Nhà sản xuất bia), có lẽ bạn cũng hiểu thức uống có cồn này đã phổ biến và được yêu thích đến mức nào. Bạn có thể tìm thấy bia ở các cửa hàng tạp hóa hoặc siêu thị nhỏ ở trạm xăng. Bia gần như ở khắp mọi nơi!
Bia có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng không trở nên phổ biến cho đến khi đồ uống này du hành đến Lưỡng Hà. Có bằng chứng về việc sản xuất bia có niên đại 10.000 năm ở Iran hiện đại. Ngoài ra còn có bằng chứng cũ hơn về việc bia được tìm thấy dưới dạng cặn trong các mảnh gốm có niên đại từ năm 3500 trước Công nguyên ở Sumer. Bia sau đó được đưa đến Ai Cập thông qua thương mại. Với Thời đại đồ đồng và công nghệ sản xuất bia trên quy mô lớn hơn được giới thiệu ở châu Âu, bia bắt đầu phát triển thành đồ uống phổ biến như ngày nay.
Bánh kếp, khoảng năm 11650 trước Công nguyên
Khi bạn nghĩ đến những món ăn cổ xưa, có thể bạn sẽ không nghĩ tới bánh kếp. Bánh kếp (chính xác hơn là các công cụ và ngũ cốc để tạo ra thứ gì đó gần giống với bánh cứng hơn) có niên đại hơn 70.000 năm. Trong hệ thống Hang Shanidar ở Iraq, vào năm 2022, các nhà nghiên cứu đã có thể phân tích tàn tích thực phẩm sử dụng nhiều thành phần và quy trình khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã tái tạo lại phát hiện của họ bằng cách giã hạt ngâm trong nước thành hỗn hợp sệt, tạo hình chúng từng miếng tròn, sau đó nấu chín. Kết quả là những chiếc bánh kếp ở hình hài thô sơ.
Người ta đã tạo ra một dạng bánh kếp khác cách đây 30.000 năm trong Thời kỳ đồ đá, mặc dù chúng thô sơ hơn nhiều so với bánh kếp thời hiện đại. Cả người Hy Lạp và La Mã cổ đại đều ăn bánh kếp với mật ong, còn triều đình của Nữ hoàng Elizabeth thì làm bánh kếp với sữa.
Ngày nay, bánh kếp có thể được tìm thấy ở các gia đình và quán ăn “quốc tế” trên khắp nước Mỹ.
Bánh mì, khoảng 10000–2200 năm trước Công nguyên
Bánh mì đã là món ăn chủ yếu của nhân loại trong nhiều thế kỷ. Từ bánh mì dẹt cho đến ổ bánh mì bện phức tạp, bánh mì đã là một phần thiết yếu trong lịch sử và văn hóa của chúng ta kể từ thời kỳ đồ đá mới hơn 12.000 năm trước.
Những chiếc bánh mì thời kỳ đầu giống với bánh mì dẹt nhưng được làm bằng các loại ngũ cốc xay thô trộn thành bột dính với nước. Bột nếp được nướng trên những tảng đá phẳng. Các loại bánh mì như bánh tortilla, matza, naan và các loại bánh mì dẹt khác của Ấn Độ vẫn có kết cấu tương tự như bánh mì thời cổ đại.
Miếng bánh mì lâu đời nhất được biết đến đã được tìm thấy cách đây hơn 14.000 năm, trùng hợp với sự ra đời của công nghệ nông nghiệp thúc đẩy sự phát triển của các loại ngũ cốc khác nhau. Ý nghĩa của chiếc bánh mì 14.000 năm tuổi là trước đây người ta tin rằng con người phát minh ra nghề nông trước tiên rồi mới nướng bánh. Với việc phát hiện ra tàn tích của bánh mì, có vẻ như việc nướng bánh đã xuất hiện trước khi trồng trọt, vì bánh mì cổ xưa có trước trồng trọt ít nhất 4.000 năm.