Tôi còn nhớ có câu nói rất hay, lên án sự vô cảm của con người như một căn bệnh quái ác: “Nơi lạnh lẽo nhất không phải ở Bắc Cực, mà ở nơi không có tình thương”.
Khi kẻ ác đội lốt con người văn minh
Vào thập niên 1970 của thế kỷ XX, tại một vùng đệm kháng chiến của tỉnh Bạc Liêu, những tên lính Mỹ, lính bảo an của VNCH, những kẻ đội lốt văn minh của nhân loại đã bắn chết một người phụ nữ không thương tiếc. Trước khi kẻ thù hành quyết, chị đã xin bồng đứa con gái bé bỏng mới 10 tháng tuổi và vạch áo cho con bú những giọt sữa cuối cùng.
Lương tri nhân loại đã chấn động trước một bức ảnh chụp tại hiện trường của phóng viên chiến trường người Anh Larry Burrows đăng trên bìa tạp chí Telegraph, xuất bản ngày 1-5-1972. Bức ảnh có dòng chú dẫn: “Và trong cái hoang vu lặng lẽ của buổi chiều tàn, giữa ngôi làng đổ nát kia, tôi tưởng tượng rằng vẫn còn một người đàn bà không rõ mặt mũi, vẫn ẩn nhẫn ngồi ôm đứa con ru cho bú. Phải chăng vẫn còn hình ảnh an ủi tuyệt đẹp và ngàn năm của ý nghĩa tồn sinh nhân loại. Đó là sự sống thách thức và cũng là tha thứ bao dung đối với cả cuộc chiến tranh dài đằng đẵng và vô ích này, với những tàn phá vô tri của con người và khí giới, bom đạn”.
Larry Burrows tác nghiệp tại các chiến trường miền Nam Việt Nam từ năm 1962-1971. Ông đã ghi lại rất nhiều hình ảnh về cuộc chiến khốc liệt tại nhiều nơi. Phóng viên này cũng đã chết cùng sĩ quan, lính Mỹ vào tháng 2-1971 trong vụ trực thăng bị quân giải phóng bắn rơi trong chiến dịch Lam Sơn giáp biên giới Lào.
Người phụ nữ thôn quê miền Tây, ngồi dựa vào cột chái hiên nhà, phía sau là bức vách tạm bằng cà tăng chứa lúa đang cho con bú, mắt nhìn xuyên đăm đắm vào đứa con bé nhỏ không rõ mặt. Bên cạnh là một tên lính Mỹ cao to, tay cầm khẩu tiểu liên AR15 lạnh lùng, vô cảm.
Di ảnh liệt sỹ Nguyễn Thị Tư.
Bức ảnh khiến tất cả con người trên trái đất này dù chỉ xem qua một lần, cũng đủ dâng trào những cảm xúc xen lẫn căm thù sâu sắc về tội ác chiến tranh và ước vọng hòa bình được truyền tải bằng thông điệp về tình mẫu tử thiêng liêng. Mặc nhiên, không cần biết câu chuyện đang xảy ra trong thời chiến tranh Việt Nam đầy khốc liệt, hay ở bất kỳ một nơi nào đó trên trái đất này thì cũng thấy rờn rợn một cảm giác đầy sự đe dọa, nguy hiểm đang chực chờ người mẹ đang cho con bú. Và cũng có lẽ là những giọt sữa cuối cùng trước khi vĩnh biệt cuộc đời.
Người phụ nữ đó là du kích Nguyễn Thị Tư, sinh năm 1937, quê ở ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, cùng con gái bé nhỏ Lê Mỹ Linh, sinh năm 1971, khi đó mới 10 tháng tuổi.
Những năm 1960-1971, xã Vĩnh Hưng là vùng đệm giữa căn cứ cách mạng Mỹ Trinh với Tiểu khu Bạc Liêu của địch nên thường xuyên diễn ra những trận càn quét, đánh nhau ác liệt giữa ta và địch tranh đất, giành dân. Đây là vùng trọng điểm chiến tranh nên tại xã Vĩnh Hưng, địch bố trí một tiểu đoàn bảo an, tiểu đoàn cơ động 411 và một cụm pháo 105 li cùng với mạng lưới dày đặc tay sai, mật vụ, cảnh sát, tề điệp... nhằm chống trả các cuộc tấn công của quân giải phóng và chi viện cho các vùng lân cận.
Tháng 12-1954, chị Nguyễn Thị Tư và anh Lê Văn Dõng (Năm Dõng) cưới nhau. Anh chị có với nhau 4 người con. Đầu thập niên 1970, anh Năm Dõng chồng chị Tư đang là xã đội trưởng lãnh đạo du kích xã tiêu diệt nhiều tên ác ôn khét tiếng trong vùng khiến cho bọn địch tức tối, điên cuồng. Đồng đội và chỉ huy của anh Năm Dõng cho biết, tên ác ôn hay tề gian nào mà nhận thư cảnh cáo của Năm Dõng thì coi như đến ngày tận số.
Đội du kích mật của xã hoạt động “xuất quỷ nhập thần” khiến cho quân địch rất hoang mang, lo sợ. Nhờ đó mà căn cứ cách mạng của xã và lực lượng vũ trang huyện được an toàn, củng cố hơn và tăng cường thêm sức mạnh, vững tin chiến đấu với kẻ thù với hàng trăm ngàn đợt càn quét, bao đợt pháo dập, bom nhồi.
Sống hợp pháp trong vùng tạm chiếm, chị Tư thay chồng lo chu toàn cho gia đình, cha mẹ, vừa nuôi con, lập quán hàng buôn bán để nghe ngóng thông tin, bí mật cung cấp thuốc men, lương thực, làm giao liên, bảo vệ an toàn cho cán bộ ra vào vùng tạm chiếm và nuôi giấu cán bộ, du kích dưới hầm bí mật.
Bức ảnh của Larry Brows đăng trên tạp chí TeleGraph.
Cuối năm 1971, chị sinh bé út Mỹ Linh. Như bao gia đình nông dân nghèo xứ này, hằng ngày chị Tư bơi xuồng ra chợ mua rau, bán cá rồi quay về bươn chải ra đồng làm ruộng. Chị luôn vững lòng tin và lo toan việc nhà, bí mật tham gia cách mạng để chồng an tâm chiến đấu với kẻ thù. Cứ mỗi lần nghe đạn pháo dội xuống căn cứ Mỹ Trinh, thì ngay sau đó người ta thấy chị Tư tất tả chèo xuồng đi hỏi han tin tức vì chị lo cho chồng và 3 đứa em ruột đang sống trong vùng căn cứ.
Bọn địch càng tức tối, điên cuồng hơn khi truy lùng bóng dáng Năm Dõng không thấy tăm hơi, trong khi những tên tay sai, ác ôn và đồn địch liên tục bị bộ đội, du kích tấn công tiêu diệt khá nặng nề. Bọn địch bàn mưu kế hèn tung mật vụ, chó săn lùng sục khắp nơi tìm cho bằng được vợ Năm Dõng để bắt uy hiếp.
Lúc này, Đảng ủy xã Vĩnh Hưng cũng đã nhận được tin mật báo về kế hoạch đê hèn của địch, nên chỉ đạo cho chị Tư nhanh chóng trốn khỏi nơi cư trú tìm cách thoát hiểm an toàn ra vùng căn cứ cách mạng. Trước đó mấy hôm, tại xã Minh Diệu, địch đã giết hại vợ của đồng chí Hai Hoàng - Thường vụ huyện ủy Vĩnh Lợi và tiếp tục truy tìm người thân của các cán bộ lãnh đạo.
Nhận lệnh di tản, chị Tư vội vàng gửi 3 con lớn về bên ngoại, còn chị ôm bé út Mỹ Linh vừa tròn 10 tháng tuổi nhanh chóng rời khỏi ấp Trung Hưng 1 đến tá túc nhà bà Hai Đẩu ngay bến đò để chờ đến tờ mờ sáng xuống đò đến Láng Tròn lánh nạn. Nhưng tai họa đã bất thình lình ập đến...
Tầm 6 giờ chiều ngày 14-2-1972, tên đại úy Phước - Tiểu đoàn trưởng bảo an ra lệnh cho một đại đội bao vây, bắt chị Tư. Chúng đánh đập rất dã man bắt chị khai ra hầm bí mật của chồng là xã đội trưởng Năm Dõng và các du kích mật Mỹ Trinh đang trú ẩn. Không khai thác được gì, tên Phước ra lệnh: “Bắn chết, cắt lỗ tai mang về cho tao”.