Những ngày đầu năm 2014, thông tin về “người rừng” Bùi Văn Toán (tên thường gọi là Út Toán, trú tại bản Phiếu, xã Tiền Phong, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình) được lan truyền khiến nhiều người không khỏi tò mò.
Theo đó, ông Toán đã bỏ nhà vào sống trong hang núi 40 năm, đoạn tuyệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Về thăm “người rừng” vào những ngày cuối năm khi ông đã trở lại cuộc sống hiện đại và chuẩn bị đón cái Tết đầu tiên bên người thân sau 40 năm sống cảnh “ăn lông ở lỗ”, chúng tôi được ông kể về quãng thời gian ở rừng và lý do quyết định về lại bản.
Những hồi ức về rừng
“Người rừng” vốn là cựu chiến binh từng tham gia kháng chiến chống Mỹ. Ông nhập ngũ năm 1970 khi vừa mới lập gia đình được mấy ngày. Năm 1975, ông xuất ngũ với niềm vui hân hoan ngày đất nước hòa bình. Nhưng ngày trở về cũng là ngày người lính ấy phải đối mặt với nghịch cảnh phũ phàng. Cha mẹ mất, người vợ từng thề non hẹn biển đã quên nghĩa phu thê đi theo người đàn ông khác. Cay đắng hơn, người đó lại chính là bạn thân một thời từng chăn trâu, cắt cỏ với ông. Quá đau đớn trước hiện thực nghiệt ngã, ông đã bỏ lại tất cả và vào cánh rừng Lắn hoang vu sống cuộc sống như thời nguyên thủy. 40 năm sau khi người dân bản Phiếu đã dần quên cái tên Út Toán trong ký ức thì ông lại trở về. Không còn là người thanh niên tuấn tú, lực lưỡng năm nào, ông Toán giờ già nua, khắc khổ. Có lẽ, cuộc sống khốn khó và phải sinh tồn nơi rừng thiêng nước độc đã khiến ông già hơn tuổi rất nhiều.
Ông Toán hiện đang sống cùng gia đình người cháu gái tại bản Oi Nọi, xã Tiền Phong.
Chia sẻ về quyết định trở về với cuộc sống bình thường của mình, “người rừng” Út Toán cho biết, tất cả quyết tâm “làm lại cuộc đời” đều là nhờ có đại đội trưởng Tự (ông Ngô Xuân Tự - từng là đại đội trưởng của ông Toán ngày cùng ở đơn vị trong Quảng Trị). Sau khi đọc được bài báo viết về “người rừng” với tên gọi Út Toán và nhận ra đó là đồng đội năm nào, ông Tự đã đích thân lặn lội từ Hà Nội lên khu rừng Lắn xa xôi để kéo ông Toán trở về với cuộc sống hiện đại. “Mới đầu ông Tự tới, tôi cứ tưởng công an xã đến bắt tôi trở về, đang tính bỏ chạy thì ông gọi tên tôi. Mừng rỡ nhận ra nhau sau bao năm xa cách, chúng tôi ôm chặt nhau rồi khóc ngon lành giữa cánh rừng già bạt ngàn. Chúng tôi tâm sự với nhau rất nhiều, hiểu được sự đớn đau và bất hạnh trong cuộc đời tôi, ông Tự không nói gì nhiều mà ra lệnh: “Tôi yêu cầu đồng chí rời khỏi hang Lắn ngay lập tức. Thế là tôi theo đồng chí ấy về Hà Nội”, ông Toán nhớ lại.
Chia sẻ với chúng tôi về trường hợp “người rừng” Bùi Văn Toán, ông Đinh Mạnh Tưởng – chủ tịch UBNX xã Tiền Phong cho biết: “Mọi thủ tục để giúp ông Toán hòa nhập với cộng đồng phía chính quyền đã hết sức hỗ trợ. Ông ấy đã được làm lại giấy CMND, nhập hộ khẩu. Còn các thủ tục về hưởng chế độ người già cô đơn, cũng như trợ cấp chiến tranh và những thủ tục liên quan đến thời gian tham gia kháng chiến của ông, chúng tôi cũng đã chuyển lên cấp trên. Về phía xã, chúng tôi sẽ cấp cho ông Toán một miếng đất làm nơi ở và quyên góp nhân dân trong xã ủng hộ kinh phí để giúp dựng cho ông một căn nhà. Hi vọng với nghĩa tình của bà con dân bản sẽ, ông Toán sẽ sống khỏe, sống vui tại địa phương nốt phần đời còn lại”. |
Từ rừng Lắn trở về, ông Toán được ông Tự đưa về Hà Nội chăm sóc. May mắn gặp lại người đại đội trưởng năm nào rồi nhận được tình cảm, sự sẻ chia và tình thương chân thành, ông dần muốn trở lại cuộc sống bình thường. Nhưng ông cũng biết không thể mãi nhận sự cưu mang của người đại đội trưởng. Vậy là sau thời gian được ông Tự chăm sóc, sức khỏe đã hồi phục, ông Toán xin trở lại địa phương. Anh Tuấn (vợ anh Tuấn là con của chị gái ông Toán – PV, hiện đang chăm sóc ông) cho biết sau 1 tháng từ Hà Nội về, “người rừng” vần còn tỏ rõ sự sợ sệt và xa lạ với những đồ dùng hiện đại: “Đang đi trên đường, ông giật thót nhảy vào vệ cỏ mỗi khí có chiếc xe máy chạy tạt qua. Hay như đang cầm chiếc điện thoại lên xem, ông bỗng sợ hãi quăng vội xuống sàn nhà chỉ vì nó đổ chuông khi có người gọi đến. Thậm chí có lần khi đài công cộng mở lên, ông đứng lại hàng giờ để nghe. Mỗi khi có ai đó đi qua nhìn thì ông lại bảo, cho tôi nghe nhờ một chút”.
Về ở với cháu được khoảng 2 tháng, ông Toán tiếp tục được một nhà hảo tâm khác đón về Hà Nội giúp đỡ. “Thầy Hải ở Trung tâm nhân đạo đào tạo việc làm cho người khuyết tật đã làm thủ tục nhận tôi về trung tâm. Tại đây, tôi được các bạn, các thầy hướng dẫn cho làm tăm tre và được chăm sóc rất tốt; tôi được mặc những bộ quần áo rất đẹp, được xem ti vi, được nghe đài... Tuy nhiên, sự ồn ào náo nhiệt của phố thị tôi không thể quen nổi. Tiếng xe, tiếng còi tàu chạy cả ngày cả đêm như gợi lại tiếng bom, tiếng đạn nơi chiến trường. Vì thế, tôi lại xin thầy Hải được trở về địa phương”, ông Toán kể. Một lý do nữa khiến ông muốn trở về là vì nhớ rừng. Tâm sự với chúng tôi, “người rừng” thú thật 40 năm gắn bó với rừng núi khiến ông quen hơi, không phải một sớm một chiều mà quên được. Ông hồi tưởng lại cuộc sống “nguyên thủy” ấy: “Ngày nào cũng vậy, tôi thường dậy rất sớm rồi túc tắc chuẩn bị đồ nghề đi săn. Bắt được con thú nào, tôi lại lấy đuôi của nó treo lên gác bếp cho thật khô. Nhưng tôi không bao bắt các con thú lớn mà thường chỉ giết thịt loài chuột, loài sóc hoặc rắn. Tôi treo đuôi của các con vật lên gác là để tính ngày, tính tháng và tính năm. Theo đó, mỗi ngày tôi sẽ bắt một con chuột. Thịt của nó thì dùng làm thức ăn hàng ngày, còn đuôi tôi lại treo lên “gác bếp” để đánh dấu cho một ngày đã qua. Còn để đánh dấu cho một tháng, tôi sẽ bắt và cắt đuôi một con sóc”. Ông Toán cho biết thêm có những hang, ông chỉ cần đi qua hít hít vài cái là biết có chuột hoặc có rắn hay không. Thậm chí, nhiều hang chuột, ông còn biết trong hang có chuột đực hay chuột cái. Theo “người rừng”, đó không chỉ là kinh nghiệm, là bản năng sinh tồn nơi rừng sâu, mà còn là những bí mật mang tên “bùa chú” mà chỉ những người Mường Ao Tá mới biết.
Thèm được trông nồi bánh chưng
Chỉ vào chiếc áo mới lên người, ông Toán chia sẻ: “Đây là áo mới đại đội trưởng Tự mua cho, mặc áo mới mà thấy ấm áp lạ kỳ. Còn nhớ những năm tháng sống trong rừng, phải hứng những cơn gió rét thấu xương của núi rừng Tây Bắc, tôi không thể nào chợp mắt được. Mặc dù trước đó đã gom rất nhiều gốc cây khô để sưởi ấm nhưng hễ chợp mắt, lửa tàn thì lại giật mình tỉnh giấc bởi cái lạnh đánh thức”. Những ngày trở lại với bản làng, tinh thần ông Toán vui lên rất nhiều, mọi người trong bản đến thăm, đến trò chuyện cùng ông cả ngày, cả đêm. “Ông nói như thể bao năm nay chưa được nói và sợ mọi người nói mất phần vậy. Nhưng giờ ông cũng trầm tính hơn rồi. Thỉnh thoảng tôi đi làm nương, làm rẫy kêu ông ở nhà trông nhà nhưng ông không chịu mà nhất định đòi đi theo. Thậm chí những ngày mùa thu hoạch, ông còn đòi đi gánh sắn, gánh ngô cùng tôi. Nhưng vợ chồng tôi không cho làm, ông già rồi gánh được bao nhiêu. Sợ ông buồn lại bỏ vào rừng nên tôi để ông trông mấy con trâu”, anh Tuấn chia sẻ.
“Người rừng” đã trở lại cuộc sống hiện đại
Cũng theo anh Tuấn thì hồi mới về bản, sau bữa ăn sáng là ông Toán lại leo lên ngọn núi của cánh rừng Lắn nhìn về phía hang đá, nơi trú ngụ của ông suốt 40 năm. Anh Tuấn cho biết: “Tôi đã dẫn ông lên xã làm lại giấy chứng minh nhân dân, xin nhập hộ khẩu và làm các thủ tục cần thiết để ông được là một người bình thường. Tất cả mọi giấy tờ, sổ sách đều đã thất lạc. May mắn các bộ xã họ cũng linh động và tạo điều kiện để ông hòa nhập với cộng đồng”. Khi hỏi ước gì trong năm mới Ất Mùi, “người rừng” cho biết, ở trong rừng lâu ông cũng quên khái niệm về năm mới, về ngày tháng… nhưng những phong tục, tập quán hay cách cúng lễ mội dịp Tết đến xuân về thì chẳng thể nào quên. Ông tâm sự: “Tôi chỉ mong có một ngôi nhà nhỏ và làm một cái bàn thờ để thờ cúng cha mẹ. Ngày còn trong hang, tôi phải làm bát hương bằng gốc nứa và đặt bàn thờ trên vách đá. Tôi cũng muốn được ngồi hàng giờ bên nồi bánh chưng, lâu lắm rồi không được ngửi thấy mùi thơm của bánh. Tôi nhớ ngày nhỏ thường ngồi trông nồi bánh chưng nghe mẹ kể nhiều chuyện về làng bản, về phong tục đón Tết... Nghĩ lại đã thấy thật ấm áp”.