“Tín ngưỡng phồn thực hiển nhiên liên quan đến chuyện "rất con người", tức là chuyện tình dục, sinh đẻ. Phần phồn thực chính là 'giá trị nhất, đặc trưng nhất' của lễ hội này”.
Lễ hội “Linh tinh tình phộc” hay còn gọi là “Lễ hội Trò Trám” được tổ chức thường niên vào các ngày 11 và 12 tháng Giêng hằng năm. Tại lễ hội này, điểm hấp dẫn và thu hút sự quan tâm của du khách thập phương nhất đó là Trò Trám và Lễ mật tại miếu Trò (còn gọi là miếu Đụ Đị) - xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Đây là lễ hội tôn vinh tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp, hiện đang được người dân ở đây trân trọng gìn giữ. Các nhà văn hóa cũng đánh giá đây là “lễ hội đáng quý”, mang đậm tính dân tộc, may mắn được khôi phục lại từ năm 1993. Tuy nhiên, nếu là “người ngoài làng” hoặc chưa hiểu rõ về tín ngưỡng dân gian phồn thực... thì sẽ thấy lễ hội có phần “dung tục”. |
Kỳ 3: Xem lễ hội phồn thực: Sao phải ngượng?
Nước ta có những lễ hội tôn vinh tín ngưỡng phồn thực - liên quan đến chuyện tình dục, sinh đẻ. Một số ý kiến cho rằng, lễ hội này có phần “dung tục”, không phù hợp văn hóa Việt. Do vậy, đề xuất bỏ phần “phồn thực” trong lễ hội đi. Để hiểu rõ hơn về lễ hội phồn thực, PV có cuộc trao đổi với GS.VS Trần Ngọc Thêm – tác giả cuốn sách nổi tiếng Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Trưởng Bộ môn Văn hóa học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
GS.VS Trần Ngọc Thêm
- PV: Thưa Giáo sư, ông có suy nghĩ gì về ý kiến cho rằng lễ hội phồn thực như Trò Trám ở Phú Thọ “dung tục” bởi tái hiện cảnh nam nữ giao hợp hoặc diễn trò hoạt cảnh với những câu hát, câu thơ đều “quy về chuyện ấy”?
GS Trần Ngọc Thêm: Cái gì cũng có tính hai mặt. Bởi văn hóa một mặt khắc phục cái tự nhiên hoang dã, đưa trình độ tư duy, trình độ sống của con người lên mức cao hơn, “người hơn”; mặt khác, văn hóa có nhiệm vụ giữ cho con người không quá xa rời, tự nhiên, sống gần với thực tế, tránh cái gọi là “đạo đức giả”.
Văn hóa truyền thống Đông Nam Á vốn là văn hóa nông nghiệp gần gũi với tự nhiên, con người chất phác, thuần hậu cho nên có tín ngưỡng phồn thực rất mạnh. Tín ngưỡng này nhằm cầu mong mùa màng tốt tươi nhưng hiển nhiên cũng liên quan đến chuyện "rất con người" là chuyện tình dục, sinh đẻ.
Tuy nhiên, một thời gian dài nước ta bị ảnh hưởng bởi Nho giáo. Để phục vụ cho mục đích quản lý, Nho giáo đưa con người vào những khuôn khổ chặt chẽ. Do vậy có một số mặt gần như đối lập với văn hóa truyền thống của Đông Nam Á, chuyện nam nữ, trai gái thuộc loại như thế.
- Nhưng thưa ông, nhiều người lo ngại những hình ảnh liên quan đến tình dục sẽ ảnh hưởng không tốt đến trẻ em và người chưa hiểu biết về tín ngưỡng phồn thực?
Ở các nước tiên tiến, trẻ em đã bắt đầu được giáo dục giới tính sớm để hiểu biết người nam khác người nữ như thế nào, cơ chế tình dục, sinh sản thế nào..., nhờ thế họ làm tốt được chuyện giữ gìn sức khỏe, sinh đẻ có kế hoạch...
Trong khi đó, người Việt ta bị ảnh hưởng nặng của Nho giáo nên cứ nói đến chuyện nam nữ là “xấu hổ”, không dám nhìn vào sự thật. Giáo trình giáo dục giới tính của chúng ta chưa tốt, ngay thầy cô giáo chưa được rèn luyện môn học giới tính kỹ càng... Trong giờ giáo dục giới tính ở nhà trường, thầy cô đỏ mặt, bỏ qua không nói hoặc nói đại khái qua loa. Kết quả là thanh thiếu niên thiếu hiểu biết, không được giáo dục tốt về giới tính, số trẻ em nữ vị thành niên phải đi nạo phá thai thuộc vào loại cao nhất thế giới.
Do vậy, cần phải phân biệt rõ môi trường nào được nói ra chuyện tình dục, sinh sản, môi trường nào không được nói. Lễ hội Trò Trám nên xem là một hình thức văn hóa đễ giáo dục về sinh sản và giới tính.
Lễ mật tái hiện lại cảnh giao hợp nam nữ
- Có ý kiến cho rằng, nên bỏ những phần phồn thực trong Lễ hội Trò Trám như dựng cảnh giao hợp, lời ca hát nhiều ẩn ý liên quan đến “chuyện trai gái”... sẽ giúp lễ hội phù hợp hơn với xã hội hiện nay. Bản thân lễ hội từng phải dừng lại những năm sau 1945, phần vì đất nước chiến tranh, phần vì bị đánh giá “dung tục”, Giáo sư nghĩ sao về ý kiến này?
Lễ hội Trò Trám có mức độ phồn thực đậm đặc nhất so với những lễ hội khác cũng liên quan đến tín ngưỡng phồn thực, vì Phú Thọ là đất tổ, một vùng đất cổ.
Giá trị nhất, đặc trưng nhất của cái lễ hội nằm ở phần phồn thực nên không thể bỏ đi. Nó sẽ gây tò mò, khiến những người chưa hiểu về tín ngưỡng phồn thực, về sự khác biệt giữa bản sắc truyền thống Đông Nam Á của văn hóa Việt Nam với phần tiếp nhận ảnh hưởng Trung Hoa sau này sẽ bắt tay vào tìm hiểu thêm. Không nên vì mình chưa hiểu được mà yêu cầu bỏ phần phồn thực.
Từ năm 1993, chúng ta bắt đầu khôi phục được Lễ hội Trò Trám là một điều rất tốt.
Hiện nay, trên thế giới, một số quốc gia rất phát triển vẫn còn giữ được những lễ hội văn hóa mang đậm chất phồn thực. Ví dụ như Nhật Bản duy trì rất tốt lễ hội khoả thân nam Hadaka Matsuri (ở đó người tham dự chỉ được phép đóng khố) được tổ chức tại 12 ngôi đền linh thiêng vào mùa hè hoặc mùa đông. Hay lễ hội phồn thực Hounen mà những người đàn ông tham dự khênh trên vai một pho tượng gỗ to cao hình cái dương vật cương cứng, các cô gái trẻ ôm những pho tượng gỗ hình dương vật nhỏ hơn đi hai bên đường, đoàn rước đi từ đền Shinmei Sha tới đền Tagata jinja. Hàng năm, các lễ hội này thu hút rất đông khách du lịch trong và ngoài Nhật Bản.
- Nếu có mặt ở lễ hội Đụ Đị (Phú Thọ) sẽ thấy, người trong dân làng hào hứng với điều mà “người ngoài làng”, khách thập phương cho là tục. Ví dụ như xem hoạt cảnh trong Trò Trám, nghệ nhân hát càng tục, dân trong làng càng hò reo, vỗ tay to. Vì sao có chuyện này, thưa Giáo sư?
Đúng như vậy! Người ngoài làng không được sống trong truyền thống, chưa hiểu biết hết về lễ hội nên không có cảm giác như dân địa phương. Văn hóa không có chuyện đúng sai, văn hóa thể hiện quan niệm, triết lý.
Vì vậy lễ hội trước hết là của làng, sau đó dần được mở rộng ra. Người ngoài nếu muốn đến thì phải “nhập gia tùy tục”, tôn trọng chủ nhà, tranh thủ mà tìm hiểu, quan sát, chứ không nên cười cợt. Chính sự cười cợt mới là thiếu văn hóa.
Mỗi câu hát, trò chơi đều quy vào bộ phận sinh sản nam nữ và chuyện giao hợp trai gái.
- Một phần quan trọng của lễ hội trước đây là “tháo khoán”. Nghĩa là sau Lễ mật, các đôi trai gái có thể tự do yêu đương, có thể giao hợp tại lễ hội. Nhưng nay lễ “tháo khoán” không còn. Sau Lễ mật, các đôi trai gái trải chiếu trước miếu thụ lộc xôi, thịt rượu. Như vậy, một phần giá trị lễ hội đã mất đi, thưa Giáo sư?
Ngày xưa, lễ hội khoanh vùng chủ yếu trong phạm vi một làng. Vì vậy việc “tháo khoán” không phải là sự tự do tùy tiện mà thực ra đã có sự ưng ý của cả đôi bên, những ai có tình ý với nhau, người ta đứng gần nhau, lúc đó dắt nhau đi. Không phải như cách hiểu thông tục là đến đấy quờ tay sang bên cạnh vớ được ai là được dắt người ta đi. Cho nên, trước đây có một số thanh niên Hà Nội nghe đồn “thích làm gì thì làm” nên đã đến lễ hội với hy vọng sờ soạng vài cô nhưng không những không được mà còn bị “ăn tát” nổ đom đóm mắt.
Xã hội ngày nay khác xưa, nhu cầu tâm sự yêu đương đã cởi mở hơn. Bên cạnh đó, phạm vi lễ hội ngày nay quá rộng, không còn thuần khiết. Nếu duy trì “tháo khoán” sẽ không quản lý được và có thể xảy ra những chuyện không hay.
Còn “Lễ mật” - tái hiện cảnh giao hợp không gây ảnh hưởng gì, không làm mất an toàn xã hội. Mà đó là cái tinh hoa nhất của Lễ hội Trò Trám.
Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!
____________________
Người ngoài làng hoặc chưa hiểu rõ về tín ngưỡng dân gian phồn thực... sẽ thấy lễ hội Đụ Đị có phần “dung tục”. Vậy còn người trong làng nghĩ gì? Mời quý đọc giả đón đọc kỳ 4: "Diễn chuyện trai gái trong lễ hội là vinh dự" vào 19h00 ngày 16/2