Bé Long sinh ra khỏe mạnh nhưng một bên đùi trái có khối u to chiếm toàn bộ mặt sau, ngoài đùi.
Bé trai 20 tháng tuổi mang khối u khổng lồ ở đùi
Bé trai Nguyễn Thế Long (20 tháng tuổi, Thanh Hóa) được chẩn đoán mắc khối u bạch huyết và chỉ định điều trị nội khoa (tiêm xơ). Tuy nhiên, sau 10 tháng điều trị tại bệnh viện tuyến dưới bệnh tình không tiến triển, bé được gia đình đưa lên bệnh viện tuyến trên để kiểm tra.
Tại đây, sau thăm khám các bác sĩ kết luận bé Long có khối u bạch huyết nằm ở toàn bộ mặt sau cơ đùi trái. Do kích thước khối u lúc này đã rất lớn (5,3x16x17cm), nếu không loại bỏ sẽ ảnh hưởng đến chức năng vận động. Ngay lập tức bé được các bác sĩ chỉ định làm các xét nghiệm cơ bản để tiến hành phẫu thuật cắt bỏ khối u “khổng lồ” khỏi cơ thể cháu bé.
Kích thước khối u lúc này đã rất lớn (5,3x16x17cm) ở đùi bé Long
Cháu được các bác sĩ tiến hành tiêm xơ làm giảm tỷ lệ tái phát, tạo hình vạt da cơ đùi sau, giúp hình thể đùi gọn lại. Các bác sĩ nhận định, đây là một phẫu thuật phức tạp do thời gian gây mê lâu, phẫu tích khối u nằm trong cơ đùi gần thần kinh hông to thần kinh đùi, bệnh nhân dễ mất máu mất dịch thể.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Hoàng Hải Đức - Trưởng khoa Chỉnh Hình Nhi - Bệnh viện Nhi Trung Ương, u bạch huyết là dị tật của hệ thống bạch huyết, có thể gặp ở mọi lứa tuổi và mọi vị trí của cơ thể. Trong đó, 90% xảy ra ở trẻ em dưới 2 tuổi và hay gặp ở vùng đầu, cổ.
U bạch huyết có thể bị từ khi còn bé (bẩm sinh) hoặc mắc phải... U bạch huyết mắc phải thường xuất hiện sau chấn thương, viêm, hoặc tắc nghẽn bạch huyết, thường phát hiện tình cờ hoặc bệnh nhân có biểu hiện đau nhẹ tại vùng tổn thương.
Dấu hiệu nhận biết trẻ mắc u bạch huyết
Có 3 loại u bạch huyết với các triệu chứng của bệnh tùy thuộc vào kích thước và độ sâu của các mạch bạch huyết bất thường.
Biểu hiện của khối u này thường thấy ở bề mặt da, do bất thường về cấu trúc mạch bạch huyết, tổn thương là những cụm mụn nhỏ có màu từ hồng đến đỏ sẫm. Tổn thương lành tính và chỉ cần điều trị khi ảnh hưởng đến thẩm mỹ nhiều.
U bạch huyết dạng hang thường thấy ngay từ khi mới sinh, đôi khi cũng gặp ở lứa tuổi lớn hơn. Tổn thương thường nằm sâu dưới da và tạo khối lồi lên bề mặt da, hay gặp ở vùng cổ, lưỡi, môi. Các tổn thương u bạch huyết thường không gây đau hoặc đau nhẹ. Kích thước có thể từ vài mm đến vài cm.
Tùy theo kích thước của u nang để phân loại các nhóm nang nhỏ, nang lớn:
- U bạch huyết dạng nang nhỏ: bao gồm nhiều nang và thể tích mỗi nang nhỏ hơn 2 cm3.
- U bạch huyết dạng nang lớn bao gồm nhiều nang và thể tích mỗi nang lớn hơn 2cm.
Nguyên nhân mắc u bạch huyết
Nguyên nhân trực tiếp của u bạch huyết là sự tắc nghẽn của hệ thống bạch huyết từ thời kỳ bào thai, mặc dù các triệu chứng có thể không phát hiện được trong giai đoạn mang thai của người mẹ cho đến khi em bé được sinh ra.
Tắc nghẽn này được cho là gây ra bởi một số yếu tố, bao gồm: Mẹ sử dụng rượu và nhiễm virus trong thời kỳ mang thai.
U bạch huyết dạng nang có thể bị ngay ở những tháng đầu của thai kỳ và thường liên quan đến các rối loạn về gen như hội chứng Noonan và hội chứng 3 nhiềm sắc thể 13, 18, 21.
U bạch huyết dạng hang cũng xuất hiện trong giai đoạn phôi thai, có thể gặp ở mặt, thân mình, chân, tay. Các tổn thương này thường phát triển với một tốc độ nhanh chóng, tương tự như u máu. Không có lịch sử gia đình của u bạch huyết dạng hang được mô tả.
U bạch huyết dạng hang cũng xuất hiện trong giai đoạn phôi thai, có thể gặp ở mặt, chân, tay. Ảnh minh họa
Các biến chứng có thể gặp do mắc u bạch huyết
Nếu u bạch huyết dạng nang có kích thước lớn ở vùng cổ có thể gây khó nuốt, các rối loạn hô hấp và nhiễm trùng.
Bệnh có thể gây ra chảy máu nhỏ, viêm mô tế bào tái phát và rò rỉ dịch bạch huyết.
Các biến chứng sau khi phẫu thuật cắt bỏ nang bạch huyết có thể gặp là tổn thương các cấu trúc cơ quan vùng cổ, nhiễm trùng và bệnh tái phát.
Bệnh nhân u bạch huyết dạng nang nên được phân tích di truyền tế bào để xác định xem có bất thường nhiễm sắc thể không để mẹ sẽ được tư vấn di truyền trong những lần mang thai sau.
Trường hợp của bé Long thuộc dạng u bạch huyết bẩm sinh và có thể chẩn đoán trước sinh, trong thời kỳ bào thai, qua siêu âm thai. Trong một số trường hợp tổn thương u bạch huyết có thể ảnh hưởng đến chức năng vận động nhất là khi khối u to ở chân hoặc tay.