Ung thu cổ tử cung không có triệu chứng rõ ràng, đa số phát hiện ở giai đoạn muộn phải phẫu thuật cắt bỏ một phần hay toàn bộ tử cung.
Chị B.N (37 tuổi, TP.HCM) là một trong những trường hợp hiếm hoi chữa khỏi ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên, chị đã phải trải qua chuỗi ngày sang chấn tâm lý, chiến đấu với các đợt hóa trị gây suy kiệt cơ thể và chấp nhận cắt bỏ một phần tử cung. Điều đó đồng nghĩa với việc chị không thể sinh con được.
Kém may mắn hơn chị B.N, chị M.T (32 tuổi, Hà Nội) được bác sĩ chẩn đoán mắc ung thư cổ tử cung giai đoạn III, phải phẫu thuật cắt bỏ tử cung ngay và kết hợp xạ hoặc hóa trị để có thêm cơ hội sống. “Thấy cơ thể luôn khỏe mạnh, không hề có dấu hiệu nào bất thường, tôi đã không chú ý khám phụ khoa định kỳ để tầm soát ung thư cổ tử cung và hậu quả là phải nhận “bản án” này đây”, chị M.T buồn và tự trách bản thân lơ là với việc phòng ngừa bệnh.
Ung thư cổ tử cung là căn bệnh diễn tiến âm thầm, kéo dài 5-20 năm. Triệu chứng ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm thường mờ nhạt, dễ nhầm lẫn với các bệnh phụ khoa khác. Do đó, nhiều trường hợp phát hiện bệnh ở giai đoan muộn, phải phẫu thuật cắt bỏ một phần hay toàn bộ tử cung.
Nhiều trường hợp phát hiện ở giai đoạn muộn phải phẫu thuật cắt bỏ cơ quan sinh sản. Ảnh: NIH
Ung thư cổ tử cung là căn bệnh ung thư phụ khoa phổ biến thứ hai ở phụ nữ, với 95% trường hợp do vi rút gây u nhú ở người HPV (Human Papilloma Virus), lây nhiễm qua đường tiếp xúc, quan hệ tình dục, từ mẹ sang con (khi sinh đẻ) và có thể tồn tại trong cơ thể hàng chục năm trước khi phát bệnh.
Tuy vậy, nhiều phụ nữ Việt ít biết về vi rút HPV (theo nghiên cứu đăng tải tháng 6/2017 trên Jounal of Infection and Public Health). Bảng hỏi thăm dò có ít nhất 34 câu được các chuyên gia Đại học Utah, Đại học Y khoa Texas, Đại học Quốc gia TP HCM gửi đến 932 sinh viên Việt Nam và Mỹ vào tháng 10/2016. Kết quả cho thấy, 495 sinh viên Việt Nam trả lời ít câu đúng về bệnh HPV hơn 437 sinh viên Mỹ. Không chỉ trang bị ít kiến thức về vi rút HPV, nữ sinh Việt Nam còn chủ quan với bệnh này.
Ở Hoa Kỳ, mỗi năm có gần 12.000 trường hợp được chẩn đoán bị ung thư cổ tử cung và hơn 4.000 phụ nữ tử vong do căn bệnh này. Chính vì vậy, Hoa Kỳ đã chọn tháng 1 là tháng nâng cao nhận thức về ung thư cổ tử cung. Theo đó, nhiều hoạt động tuyên truyền về mức độ nguy hiểm và cách phòng ngừa hiệu quả nhất của căn bệnh này được Hiệp hội Y tế Tình dục (ASHA) và Hiệp hội Ung thư cổ tử cung Hoa Kỳ tổ chức nhằm giúp phụ nữ nâng cao nhận thức hơn về căn bệnh này.
Theo ghi nhận trong kế hoạch dự phòng và kiểm soát ung thư cổ tử cung từ 2016-2025 của Bộ Y tế, nguy cơ nhiễm HPV ít nhất 1 lần trong đời của phụ nữ là khoảng 80%, tỷ lệ nhiễm cao nhất xảy ra ở độ tuổi 20-30, có thể lên đến 20-25%. Điều đáng nói là tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung ở Việt Nam liên quan chặt chẽ với tỷ lệ nhiễm HPV. Hiện nay chưa có thuốc đặc trị khi đã nhiễm vi rút này, do đó, cách phòng ngừa hiệu quả nhất là tiêm vắc xin ngừa nhiễm vi rút HPV. Các bằng chứng lâm sàng cho thấy, vắc xin ngừa HPV có thể giảm tới 90% các sang thương tiền ung thư cổ tử cung. Độ tuổi tiêm vắc xin là 9-26, tốt nhất là 11 đến 12 tuổi, bất kể có quan hệ tình dục hay chưa. Tuy nhiên, thuốc đạt hiệu quả cao nhất khi tiêm ngừa trước lần quan hệ tình dục đầu tiên.
Tiêm vắc xin ngừa vi rút HPV là biện pháp đơn giản và hiệu quả phòng bệnh ung thư cổ tử cung. Ảnh: She Knows
Ngoài ung thư cổ tử cung, vắc xin này còn ngừa được bệnh sùi mào gà, ung thư dương vật, ung thư âm hộ hay âm đạo… Theo báo cáo mới nhất của Ủy ban Tư vấn về An toàn Vắc xin Toàn cầu (GACVS) vào tháng 6/2017, kể từ khi được cấp phép vào 2006 đến nay, đã có hơn 270 triệu liều vắc xin ngừa vi rút HPV được phân phối trên toàn cầu. Tại Việt Nam, Bệnh viện Từ Dũ, các Bệnh viện phụ sản, Viện Pasteur, Trung tâm y tế dự phòng và nhiều cơ sở tiêm chủng đều được cấp phép tiêm loại vắc xin này.
Do vắc xin không phòng ngừa được tất cả các chủng HPV nên dù tiêm ngừa, phụ nữ vẫn cần phải tầm soát định kỳ ung thư cổ tử cung bằng xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung. 90% ung thư cổ tử cung có thể chữa được nếu phát hiện sớm, bảo tồn tử cung, khả năng sinh nở và tính mạng cho người bệnh.