Bạch hầu là bệnh có nguy cơ lây lan nhanh và nguy hiểm tới tính mạng, dù đã có vắc xin phòng bệnh nhưng vẫn ghi nhận một số ca mắc rải rác, thậm chí tử vong.
Bạch hầu - Bệnh rất dễ lây nhiễm
Theo thông tin từ Bộ Y tế, tại Nghệ An mới ghi nhân một tử vong do mắc bệnh bạch hầu. Hiện qua rà soát các trường hợp tiếp xúc gần với bệnh nhân, phát hiện 01 người là bạn ở cùng phòng đã dương tính, đang điều trị tại BV Bệnh Nhiệt đới Trung ương.
Theo Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), bệnh bạch hầu do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Vi khuẩn gây bệnh chủ yếu bằng ngoại độc tố (exotoxin) dẫn đến phù nề, sau đó gây hoại tử và loét niêm mạc, tạo ra các giả mạc bám chặt vào niêm mạc.
Bệnh lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc với giọt bắn của người nhiễm bệnh lúc ho, hắt hơi. Ngoài ra, bệnh có thể lây qua con đường gián tiếp khi tiếp xúc với đồ vật bị nhiễm dịch mũi hầu từ người bệnh, do vậy việc dùng chung micro hoặc tiếp xúc gần khi hát karaoke hoàn toàn có nguy cơ lây bệnh. Bệnh cũng có thể lây nhiễm khi tiếp xúc với vùng da tổn thương do bạch hầu.
Bệnh bạch hầu lây qua giọt bắn và tiếp xúc gần nên việc hát karaoke cùng bệnh nhân hoàn toàn có nguy cơ mắc bệnh. Ảnh minh họa.
Vi khuẩn gây bệnh bạch hầu có sức đề kháng cao ở ngoài cơ thể và chịu được khô lạnh. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nếu được chất nhầy bao quanh cơ thể, vi khuẩn có thể sống trên đồ vật vài ngày, thậm chí là vài tuần. Khi ở dưới ánh sáng mặt trời, vi khuẩn sẽ chết sau vài giờ, ở nhiệt độ 58 độ C vi khuẩn sống được 10 phút, ở môi trường phenol 1% và cồn 60 độ có thể sống được 1 phút.
Biểu hiện dễ nhầm lẫn
Thể bệnh hay gặp nhất của bệnh bạch hầu là ở đường hô hấp (mũi, họng, thanh quản, khí phế quản), trong đó 70% là bạch hầu họng. Ngoài ra, các vị trí khác có thể nhiễm bệnh như bạch hầu da, bạch hầu mắt… Các biểu hiện này giống các bệnh hô hấp thông thường nên rất hay bị nhầm lẫn ở giai đoạn đầu mới mắc.
Theo các chuyên gia, thời gian ủ bệnh thường từ 2 đến 5 ngày, có thể lâu hơn. Thời kỳ lây truyền bệnh thường không cố định, có thể kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn, thậm chí là trên 4 tuần. Tùy vào vị trí vi khuẩn gây bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau. Cụ thể:
- Bệnh bạch hầu mũi trước: Bệnh nhân sổ mũi, chảy ra chất mủ nhầy đôi khi có máu, có màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Dấu hiệu điển hình của bệnh bạch hầu là viêm đau vùng hầu họng, amidan nên dễ nhầm lẫn. Ảnh minh họa.
- Bệnh bạch hầu họng và amidan: Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2, 3 ngày xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng.
Trong một số trường hợp, bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Những trường hợp nhiễm độc nặng, bệnh nhân sẽ phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Nếu không được điều trị tích cực, những bệnh nhân này có thể tử vong trong vòng 6 đến 10 ngày.
- Bạch hầu thanh quản: Là thể bệnh tiến triển nhanh và nguy hiểm. Bệnh nhân có dấu hiệu sốt nhẹ, khàn tiếng, ho, các giả mạc tại thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Nếu không được điều trị kịp thời, các giả mạc có thể gây tắc đường thở, làm bệnh nhân suy hô hấp và tử vong nhanh chóng.
Vì sao bệnh nhân mắc bạch hầu dễ tử vong
Người bệnh bạch hầu không được phát hiện sớm ngoài việc dễ làm lây lan bệnh, còn tăng nguy cơ biến chứng nặng. Biến chứng thường gặp nhất ở bệnh là viêm cơ tim và viêm dây thần kinh. Viêm cơ tim có thể xảy ra ở giai đoạn toàn phát hoặc chậm vài tuần sau khi người bệnh khỏi. Khi viêm cơ tim xuất hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, tỷ lệ tử vong thường rất cao.
Biến chứng viêm dây thần kinh thường ảnh hưởng đến dây thần kinh vận động và sẽ hồi phục hoàn toàn nếu bệnh nhân không tử vong vì những biến chứng khác. Ngoài ra, bạch hầu có thể gây biến chứng liệt các dây thần kinh vận nhãn, liệt cơ chi và cơ hoành có thể xuất hiện vào tuần thứ 5 của bệnh. Ở trẻ em, đặc biệt là nhũ nhi có thể gặp các biến chứng như viêm kết mạc mắt hoặc suy hô hấp.
Phụ nữ mang thai mắc bạch hầu tỉ lệ tử vong có thể lên đến khoảng 50%, một phần ba trường hợp sống sót có thể bị sảy thai hoặc sinh non. Điều trị sớm bằng huyết thanh kháng bạch hầu có thể cải thiện tỷ lệ sống sót và mang thai. Với trẻ nhỏ, tỉ lệ tử vong khoảng 5% - 10% và có thể tăng cao lên đến 20% ở trẻ dưới 5.
Người lớn cũng cần phải tiêm nhắc lại vắc xin phòng bệnh bạch hầu. Ảnh minh họa.
Phòng bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu dù không bùng phát thành dịch lớn, nhưng thi thoảng vẫn ghi nhận rải rác vài ca ở một số địa phương. Dù đã có vắc xin phòng bệnh, nhưng những người không tiêm phòng hoặc tiêm không đẩy đủ có nguy cơ mắc rất cao. Người mắc bệnh cần được vào viện để cách ly, theo dõi, chẩn đoán và điều trị.
Để phòng bệnh, trong sinh hoạt cần rửa tay đúng quy cách bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn. Người tiếp xúc với bệnh nhân bạch hầu cần được sử dụng kháng sinh dự phòng. Quan trọng nhất là tiêm vắc xin đầy đủ, đúng lịch, đúng độ tuổi và tiêm nhắc lại theo tư vấn của bác sĩ.
Vắc xin bạch hầu có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể tránh nhiễm bệnh và làm giảm tỷ lệ mắc bệnh trong quần thể dân số nói chung. Do đó, trẻ em cần được tiêm chủng đầy đủ vaccine (Bạch hầu - Ho gà - Uốn ván, DPT) theo chương trình tiêm chủng. Người lớn nên tiêm nhắc lại vaccine bạch hầu mỗi 10 năm để củng cố khả năng miễn dịch của cơ thể.