Bộ Luật Lao động năm 2019 có hiệu lực từ ngày 1-1-2021, với nhiều quy định thay đổi liên quan đến lương tối thiểu
Dưới đây là 5 điểm mới về lương tối thiểu năm 2021.
1. Xác lập theo vùng, ấn định tháng, giờ
Khoản 1, Điều 91 Bộ Luật Lao động (BLLĐ) năm 2019 quy định về lương tối thiểu như sau: Mức lương tối thiểu là mức lương thấp nhất được trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Mức lương tối thiểu ngành sẽ không còn được áp dụng từ 1-1-2021
So với quy định tại BLLĐ năm 2012, cách xác lập mức lương tối thiểu từ năm 2021 đã có sự điều chỉnh. Cụ thể, theo khoản 1, Điều 91 BLLĐ năm 2012, mức lương tối thiểu được xác định theo tháng, ngày, giờ và được xác lập theo vùng, ngành.
Trong khi đó, tại BLLĐ 2019, mức lương tối thiểu chỉ còn được xác lập theo vùng, ấn định theo tháng, giờ.
Như vậy, quy định mới đã bỏ cách xác định lương tối thiểu theo ngành và ấn định theo ngày. Đồng nghĩa rằng, mức lương tối thiểu ngành sẽ không còn được áp dụng từ 1-1-2021.
2. Bỏ quy định về mức lương tối thiểu ngành
Năm 2020, mức lương tối thiểu ngành vẫn được áp dụng theo khoản 3, Điều 91 BLLĐ năm 2012 như sau: Mức lương tối thiểu ngành được xác định thông qua thương lượng tập thể ngành, được ghi trong thỏa ước lao động tập thể ngành nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố.
Tuy nhiên, đến BLLĐ năm 2019 đã không còn quy định này. Theo đó, từ ngày 1-1-2021 sẽ không còn lương tối thiểu ngành mà thay vào đó, lương tối thiểu từ năm 2021 chỉ được xác định theo vùng, ấn định theo tháng và giờ.
3. Chính phủ công bố
Khoản 4, Điều 91 BLLĐ năm 2019 quy định, Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia.
Như vậy, từ năm 2021, Chính phủ có thẩm quyền công bố cả tiền lương tối thiểu vùng, tiền lương tối thiểu theo giờ và tiền lương tối thiểu theo tháng. Trong khi BLLĐ năm 2012 chỉ quy định Chính phủ công bố mức lương tối thiểu vùng.
4. Thêm nhiều căn cứ điều chỉnh
Theo quy định tại khoản 2, Điều 91 BLLĐ năm 2012, mức lương tối thiểu vùng sẽ do Chính phủ công bố trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia dựa trên 3 căn cứ: Nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ; điều kiện kinh tế - xã hội; mức tiền lương trên thị trường lao động.
Từ năm 2021, Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia
Với quy định mới tại BLLĐ năm 2019, mức lương tối thiểu vùng của người lao động sẽ được điều chỉnh theo 7 tiêu chí: Mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ; Tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương trên thị trường; Chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế; Quan hệ cung, cầu lao động; việc làm và thất nghiệp; Năng suất lao động; Khả năng chi trả của doanh nghiệp.
Có thể thấy, các căn cứ điều chỉnh lương tối thiểu vùng tại BLLĐ năm 2019 đã được quy định cụ thể và rõ ràng hơn, giúp cho việc đánh giá, xác định mức lương tối thiểu cho các vùng được chính xác, phù hợp với mức sống của người lao động cũng như điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương.
5. Sẽ giữ nguyên như năm 2020
Như đã đề cập, mức lương tối thiểu vùng sẽ do Chính phủ quyết định và công bố trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia. Hằng năm, Hội đồng tiền lương quốc gia sẽ chốt mức lương tối thiểu vùng và trình Chính phủ quyết định, thông qua Nghị định về lương tối thiểu vùng.
Những năm gần đây, mức lương tối thiểu vùng năm sau đều tăng so với năm trước. Tuy nhiên, do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 khiến cho nền kinh tế khó khăn nên tháng 8-2020, Hội đồng tiền lương Quốc gia đã trình Chính phủ đề xuất không tăng tiền lương tối thiểu vùng năm 2021 mà giữ nguyên như năm 2020.
Nếu phương án này được Chính phủ lựa chọn thì năm 2021 tới đây mức lương tối thiểu vùng sẽ tiếp tục thực hiện theo quy định tại Nghị định 90/2020/NĐ-CP:
Mức lương tối thiểu vùng là 4,42 triệu đồng/tháng, áp dụng với doanh nghiệp thuộc vùng I; 3,92 triệu đồng/tháng vùng II; 3,43 triệu đồng/tháng vùng III; 3,07 triệu đồng/tháng vùng IV.