Theo Luật Đất đai 2024, có tới 6 trường hợp các tài sản gắn liền với đất không được cấp sổ đỏ, trong đó có tài sản gắn liền với đất mà thửa đất có tài sản đó thuộc trường hợp không cấp sổ đỏ.
Khoản 2 Điều 151 Luật Đất đai 2024 quy định, các tài sản gắn liền với đất không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (giấy chứng nhận) thuộc 1 trong các trường hợp sau:
Tài sản gắn liền với đất mà thửa đất có tài sản đó thuộc trường hợp không cấp sổ đỏ quy định tại khoản 1 Điều 151 Luật Đất đai 2024 hoặc không đủ điều kiện cấp sổ đỏ;
Nhà ở hoặc công trình xây dựng được xây dựng tạm thời trong thời gian xây dựng công trình chính hoặc xây dựng tạm thời bằng vật liệu tranh, tre, nứa, lá; công trình phụ trợ nằm ngoài phạm vi công trình chính và để phục vụ cho việc quản lý, sử dụng, vận hành công trình chính;
Tài sản gắn liền với đất đã có thông báo hoặc quyết định giải tỏa, hoặc đã có quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp đã quá 3 năm kể từ thời điểm có các thông báo, quyết định này mà không thực hiện;
Nhà ở, công trình: Được xây dựng sau thời điểm công bố cấm xây dựng; Xây dựng lấn, chiếm mốc giới bảo vệ các công trình hạ tầng kỹ thuật, di tích lịch sử - văn hóa đã xếp hạng;
Tài sản gắn liền với đất được tạo lập từ sau thời điểm quy hoạch được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mà tài sản được tạo lập đó không phù hợp với quy hoạch được duyệt tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ những trường hợp chủ sở hữu nhà ở, công trình xây dựng không phải là nhà ở theo quy định tại Điều 148 và Điều 149 Luật Đất đai 2024 có giấy phép xây dựng có thời hạn theo quy định của pháp luật về xây dựng;
Tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước, trừ trường hợp tài sản đã được xác định là phần vốn của Nhà nước đóng góp vào doanh nghiệp theo hướng dẫn của Bộ Tài chính;
Tài sản gắn liền với đất không thuộc trường hợp quy định tại Điều 148 và Điều 149 Luật Đất đai 2024: So với quy định trước kia, Luật Đất đai 2024 đã lược bỏ 2 trường hợp tại Điều 33 và điều 34 Nghị định 43/2014/NĐ-CP là rừng sản xuất là rừng trồng và quyền sở hữu cây lâu năm, quy định mới chỉ còn 2 trường hợp là công trình xây dựng là nhà ở và không phải là nhà ở.
Ngoài ra quy định mới còn bỏ trường hợp là tài sản tạo lập do chuyển mục đích sử dụng đất trái phép sẽ không được cấp giấy chứng nhận.
Ngoài nội dung trên, Luật Đất đai 2024 còn nêu rõ, nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thì sổ đỏ sẽ đứng tên cả 2 vợ chồng.
Điều 135 Luật Đất đai 2024 quy định, trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào sổ đỏ, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người để đứng tên làm đại diện cho vợ và chồng.
Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà sổ đỏ đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang sổ đỏ để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có yêu cầu.
Như vậy, theo quy định mới, nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thì được quyền đứng tên cả hai vợ chồng. Nếu hai vợ chồng có thỏa thuận cho một người đứng tên thì sẽ cho người đó đứng tên.