Đăng ký khai sinh cho trẻ em không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của những cá nhân, tổ chức có trách nhiệm. Những cá nhân, tổ chức có trách nhiệm phải thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ đăng ký khai sinh cho trẻ em.
Quyền được khai sinh, có quốc tịch là một trong những quyền quan trọng và đầu tiên của trẻ em, được quy định trong các văn bản pháp luật của nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam, Công ước quốc tế về quyền trẻ em 19889, Công ước quốc tế về quyền Dân sự và Chính trị 1966 mà nước ta đã tham gia ký kết. Bởi vậy, đăng ký khai sinh cho trẻ không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có trách nhiệm.
Thẩm quyền đăng ký khai sinh của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Thẩm quyền theo nơi cư trú
Ủy ban nhân dân cấp xã – nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ. Nếu không xác định được nơi cư trú của mẹ, Ủy ban nhân dân cấp xã – nơi cư trú của người cha thực hiện đăng ký khai sinh. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của cả mẹ lẫn cha, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc đăng ký khai sinh.
Đối với trường hợp trẻ sinh ra bị bỏ rơi, Ủy ban nhân dân cấp xã – nơi cư trú của người đang tạm thời nuôi dưỡng đứa trẻ đó sẽ thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi.
Thẩm quyền theo đối tượng
UBND cấp xã có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có:
- Cha và mẹ là công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.
- Cha và mẹ là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam cư trú ở trong nước, còn người kia là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài;
- Cha và mẹ là người nước ngoài hoặc người không quốc tịch, cư trú ổn định, lâu dài tại Việt Nam.
- Cha hoặc mẹ là người nước ngoài hoặc người không quốc tịch, cư trú ổn định, lâu dài tại Việt Nam, còn người kia là công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.
- Cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới, còn người kia là công dân của nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới.
Thẩm quyền đăng ký khai sinh của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố
- Trường hợp trẻ em sinh ra tại Việt Nam, có cha và mẹ là người nước ngoài, Sở Tư pháp nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh, nếu họ có yêu cầu.
- Trường hợp trẻ em sinh ra tại Việt Nam, có cha hoặc mẹ là người nước ngoài, còn người kia là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, thì Sở Tư pháp, nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh.
- Trường hợp trẻ em sinh ra tại Việt Nam, có cha hoặc mẹ là người nước ngoài, còn người kia là công dân Việt Nam đang cư trú tại Việt Nam, thì Sở Tư pháp, nơi cư trú của người mẹ hoặc người cha là công dân Việt Nam thực hiện việc đăng ký khai sinh.
60 ngày kể từ khi trẻ sinh ra, không phân biệt khu vực đồng bằng hay miền núi. Nếu quá thời hạn trên, trẻ vẫn được đăng ký khai sinh nhưng phải đăng ký theo thủ tục đăng ký khai sinh quá hạn.
- Cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con. Nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh, thì ông bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em.
- Người đang tạm thời nuôi dưỡng hoặc tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, nếu cơ quan có thẩm quyền đã thông báo mà không tìm thấy cha mẹ.
- Người đi đăng ký khai sinh phải nộp Giấy chứng sinh (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu cha, mẹ của trẻ em có đăng ký kết hôn).
- Giấy chứng sinh do cơ sở y tế, nơi trẻ em sinh ra cấp. Nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực.
- Trong trường hợp cán bộ Tư pháp hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em, không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn.
Sau khi kiểm tra các giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi khai sinh một bản chính Giấy khai sinh. Bản sao Giấy khai sinh được cấp theo yêu cầu của người đi khai sinh.
Con ngoài giá thú là con của người cha và người mẹ không đăng ký kết hôn với nhau. Việc đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú vẫn được thực hiện như đối với khai sinh cho con trong giá thú. Nhưng cần lưu ý:
- Không bắt buộc người mẹ phải khai về cha đứa trẻ.
- Họ và dân tộc của trẻ được xác định theo họ và dân tộc của người mẹ.
- Phần khai về người cha của trẻ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh phải để trống, tuyệt đối không gạch chéo, không viết gì khác vào phần khai này.
- Chỉ ghi thông tin về người cha khi đã có Quyết định công nhận việc cha nhận con có hiệu lực của UBND cấp xã hoặc của Toà án nhân dân.
- Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú mà có người nhận là cha của đứa trẻ và đề nghị được ghi tên vào phần khai về người cha, thì có 2 cách giải quyết sau:
Nếu việc nhận con là tự nguyện và không có tranh chấp thì kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh theo thủ tục đăng ký hộ tịch. Khi kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh thì được phép xác định họ, dân tộc của người con theo họ, dân tộc của người cha (nếu cha và mẹ có thoả thuận) ngay từ thời điểm đăng ký khai sinh; được phép ghi ngay tên của người cha vào phần khai về người cha trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh.
Nếu việc cha nhận con có tranh chấp, thì cán bộ Tư pháp - Hộ tịch hướng dẫn người cha làm thủ tục nhận con tại Toà án nhân dân có thẩm quyền. Khi quyết định công nhận cha cho con của Toà án nhân dân có hiệu lực thì mới được làm các thủ tục khác như: ghi bổ sung vào phần khai về người cha trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của người con; xin thay đổi họ và xác định lại dân tộc cho người con theo họ và dân tộc của người cha.
Người phát hiện trẻ sơ sinh bị bỏ rơi có trách nhiệm bảo vệ và báo ngay cho UBND cấp xã hoặc công an xã, phường, thị trấn, nơi trẻ em bị bỏ rơi để lập biên bản và tìm người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng trẻ em đó.
Biên bản phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm phát hiện trẻ bị bỏ rơi; giới tính; đặc điểm nhận dạng; tài sản và các đồ vật khác của trẻ (nếu có); họ, tên, địa chỉ của người phát hiện. Biên bản được lập thành 2 bản, 1 bản được lưu tại UBND cấp xã, nơi lập biên bản, 1 bản giao cho người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng đứa trẻ.
UBND cấp xã nơi lập biên bản có trách nhiệm thông báo trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình địa phương để tìm cha, mẹ đẻ của trẻ. Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình có trách nhiệm thông báo miễn phí 03 lần trong 03 ngày liên tiếp các thông tin về trẻ sơ sinh bị bỏ rơi. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo cuối cùng, nếu không tìm thấy cha, mẹ đẻ thì người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng trẻ có trách nhiệm đi đăng ký khai sinh.
Khi đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, họ, tên của trẻ được ghi theo đề nghị của người đi khai sinh; nếu không có cơ sở để xác định ngày sinh và nơi sinh, thì ngày phát hiện trẻ bị bỏ rơi là ngày sinh; nơi sinh là địa phương nơi lập biên bản; quốc tịch của trẻ là quốc tịch Việt Nam. Phần khai về cha, mẹ và dân tộc của trẻ trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh được để trống, tuyệt đối không được gạch chéo. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ "Trẻ bị bỏ rơi".
Trong trường hợp có người nhận trẻ làm con nuôi, cán bộ Tư pháp hộ tịch (nơi đã đăng ký khai sinh cho trẻ) căn cứ vào Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi để ghi tên cha, mẹ nuôi vào phần ghi về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của con nuôi. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ "cha, mẹ nuôi", nội dung ghi chú này liên quan đến bí mật đời tư của cá nhân nên phải được giữ bí mật, chỉ những người có thẩm quyền mới được tìm hiểu.
Bởi đứa trẻ sinh ra được xác định là con của người nhờ mang thai hộ nên trách nhiệm đăng ký khai sinh thuộc về người chồng hoặc người vợ nhờ mang thai hộ (Căn cứ vào Điều 15 Luật Hộ tịch 2015).
Về cơ bản, thủ tục đăng ký khai sinh cho con do mang thai hộ cũng giống thủ tục đăng ký khai sinh cho trẻ em bình thường. Ngoại trừ vì được sinh ra nhờ mang thai hộ, nên cần lưu ý khi xin cấp giấy chứng sinh.
Chỉ thực hiện đăng ký lại việc sinh khi có đủ 2 điều kiện sau: Sự kiện sinh đó đã được đăng ký; Hiện tại bản chính và sổ gốc đã mất hoặc bị hư hỏng mà không thể sử dụng được.
Người có yêu cầu đăng ký lại việc sinh cho trẻ phải nộp tờ khai (theo mẫu quy định). Trường hợp đăng ký lại tại Ủy ban nhân dân cấp xã, không phải nơi trẻ em đã đăng ký khai sinh trước đây, tờ khai phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh về việc đã đăng ký; trừ trường hợp đương sự xuất trình được bản sao Giấy khai sinh đã cấp hợp lệ trước đây.
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi đăng ký một bản chính Giấy khai sinh. Các giấy tờ hộ tịch cũ liên quan đến sự kiện hộ tịch đăng ký lại (nếu có) được thu hồi và lưu hồ sơ. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và dưới tiêu đề của bản chính Giấy khai sinh phải ghi rõ "Đăng ký lại".
Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Khi đăng ký lại việc sinh, nếu người đi đăng ký lại xuất trình bản sao Giấy khai sinh đã cấp hợp lệ trước đây, thì nội dung khai sinh được ghi theo nội dung của bản sao giấy tờ hộ tịch đó.
Phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh được ghi theo thời điểm đăng ký lại việc sinh. Riêng phần ghi về quốc tịch của cha, mẹ trong trường hợp cha, mẹ đã được thôi quốc tịch Việt Nam, đã nhập quốc tịch nước ngoài, thì quốc tịch của cha, mẹ vẫn phải ghi quốc tịch Việt Nam; quốc tịch hiện tại của cha, mẹ được ghi chú vào Sổ đăng ký khai sinh và mặt sau của bản chính Giấy khai sinh.