Quay trở lại quá khứ, từ những năm 1990, chuyện sinh nở có những thay đổi gì và các mẹ bầu lựa chọn vượt cạn ra sao? Hãy cùng khám phá!
Những năm 1990
Hầu hết phụ nữ sinh con ở nhà, vì khi đó bệnh viện vẫn còn thưa thớt, y học hiện đại chưa phát triển. Những gia đình giàu có đã thuê bác sỹ chuyên nghiệp thay vì bà đỡ. Gây mê đã xuất hiện, nhưng chưa được áp dụng cho sinh nở. Vậy nên, sinh thường vẫn chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối.
Những năm 1910
Có thêm vài lựa chọn khi sinh nở. Dù vậy, các ca vượt cạn vẫn chủ yếu diễn ra tại nhà. Bệnh viện phụ sản đầu tiên được thành lập năm 1914. Cùng năm đó, Twilight Sleep, phương pháp tiêm một liệu morphine và scopolamine cho sản phụ để hỗ trợ sinh nở bắt đầu trở nên phổ biến. Khi đó, bà bầu dường như chìm vào giấc ngủ sâu tạm thời, tuy nhiên tỷ lệ tử vong ở cả mẹ và con vẫn rất cao.
Những năm 1920
Thập kỷ này chứng kiến nhiều bước tiến lớn về y học. Ngoài việc vẫn áp dụng phương pháp Twilight Sleep, bác sỹ đã có biện pháp can thiệp để mở rộng cổ tử cung, hỗ trợ quá trình sinh sản thuận lợi hơn. Biện pháp dùng kẹp forcep để thúc đẩy những trường hợp sinh khó cũng ra đời vào khoảng thời gian này.
Những năm 1930
Số ca sinh nở diễn ra ở bệnh viện đã lên tới 75%. Tuy nhiên, đáng tiếc là tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong tăng lên tới 40-50% vì sự can thiệp không cần thiết. Hầu như 100% trường hợp sinh nở, dù ở nhà hay bệnh viện, đều được tiêm theo phương pháp Twilight Sleep. Phụ nữ bắt đầu phàn nàn họ không nhớ bất kỳ cảm giác nào về quá trình sinh con.
Những năm 1940
Lúc này, Twight Light vẫn chiếm hữu gần như mọi ca sinh nở. Tuy nhiên, các nhà khoa học đưa ra nhiều bằng chứng hơn về lợi ích của việc sinh thường. Hơn nữa, có thêm công trình nghiên cứu về cơ quan sinh sản của phụ nữ, giúp họ hiểu tường tận cơ chế chuyện sinh con như thế nào.
Những năm 1950
Đến tận những năm 1950, siêu âm thai mới được phát minh, nhưng chỉ dùng để phát hiện các vấn đề về y học bất thường, chưa xác định được giới tính. Xã hội phản đối dữ dội hơn vì hình ảnh người phụ nữ sinh con trong bệnh viện được công bố rộng khắp, khi họ bị trói chặt, cùm kẹp ở những thanh sắt. Phương pháp Twight Light không còn được tin tưởng nhiều như trước nữa.
Những năm 1960
Kỹ thuật siêu âm thai đã phát triển mạnh mẽ hơn, cho phép bác sỹ theo dõi sự thay đổi về nhịp tim của thai nhi trong suốt quá trình vượt cạn. Điều trị kháng sinh trở nên phổ biến đối với phụ nữ sau sinh. Do vậy, tỷ lệ tử vong ở cả bà mẹ và trẻ em đều giảm đáng kể. Cũng trong thời gian này, thuốc tránh thai được “giải oan” là hoàn toàn không ảnh hưởng tới sức khỏe.
Những năm 1970
Các bà bầu có rất nhiều lựa chọn để giảm đau khi sinh con tại bệnh viện, trong khi Twight Light gần như tuyệt chủng, được thay thế bằng các kỹ thuật khác, hiện đại hơn. Các lớp học về tiền sinh nở mọc lên như nấm, giúp phụ nữ luyện tập, chuẩn bị tinh thần, cơ thể tốt nhất cho lần sinh con sắp đến.
Những năm 1980
Kỹ thuật siêu âm Doppler trở nên phổ biến hơn, cho phép bố mẹ nghe và thấy nhịp tim của con mình như thế nào. Đây được xem là bước tiến lớn trong y học sản khoa hiện đại.
Những năm 1990
Đến tận thời gian này, xét nghiệm chọc ối mới trở nên phổ biến, cho phép phát hiện các bất thường về gen trước khi sinh. Siêu âm chẩn đoán giới tính cũng được sử dụng rộng rãi để chọn lọc trước khi sinh. Trong bệnh viện, ở các ca sinh nở, bà mẹ được chú ý chăm sóc nhiều hơn, hạn chế tối đa những tổn thương.
Những năm 2000
Đã có 30% phụ nữ chọn sinh mổ tại bệnh viện trong khoảng thời gian này. Đây được xem là lựa chọn thông minh, giúp cứu sống nhiều sinh mạng của cả mẹ lẫn con. Đáng tiếc là tỷ lệ tử vong lại nhỉnh hơn, các chuyên gia đổ lỗi cho tình trạng phụ nữ béo phì quá phổ biến. Trong khi đó, kỹ thuật siêu âm 4D, 3D được áp dụng rộng khắp.
Những năm 2010
Hình thức sinh con tại nhà hưng thịnh trở lại tại những quốc gia phát triển. Các bà mẹ hướng tới hình thức sinh nở tự nhiên, không muốn có bất kỳ sự can thiệp vào về thuốc hay kỹ thuật y học hiện đại.