Để biến người con gái bình thường thành nữ thái giám, một phương pháp vô cùng tàn bạo đã được tiến hành: Người ta dùng gậy nhỏ đập vào bụng người phụ nữ để cho dạ con sa xuống, không thể thụ thai, mang thai và sinh đẻ được.
Từ truyền thống hoạn quan
Chữ Hán, có hơn ba mươi từ ngữ dùng để chỉ hoạn quan, nên thường giải thích hoạn quan là thái giám. Nhưng kỳ thực, khái niệm về hai từ này có chỗ khác biệt. Mới đầu, hoạn quan không nhất thiết phải là người bị thiến. Trong lịch sử Trung Quốc cổ xưa đã có hoạn quan. "Hoạn quan" chỉ là danh xưng chỉ chung những quan viên phục dịch, hầu hạ hoàng đế và gia tộc trong hoàng cung.
Từ thời Tây Chu đã xuất hiện hoạn quan và được gọi là tự nhân, hoặc hạng nhân, yêm doãn, nội tiểu thần. Đến thời Chiến Quốc, nước Triệu có Hoạn giả lệnh coi về hoạn quan. Nước Tần có hoạn quan đảm nhận chức Xa phủ lệnh. Sau khi Tần thống nhất Trung Nguyên, hoạn quan có người làm đến Thừa tướng, gọi là Trung thừa lệnh. Thời Tây Hán có những hoạn quan đảm nhận các chức Hoàng môn lệnh, Dịch đình lệnh.
Tượng nữ thái giám
Cho đến đầu đời nhà Đông Hán, khi Lưu Tú quang phục lại Hán thất, mới ban lệnh hoạn quan tất yếu phải là người đàn ông bị thiến. Từ ngữ "thái giám" xuất hiện sớm nhất vào đời Đường Cao Tông Lý Trị năm Long Sóc nhị niên, tức năm 662, khi đem thay đổi danh xưng "Điện trung tỉnh", cơ cấu chuyên lo việc xa giá, y phục trong hoàng cung thành "Trung ngự phủ", và cải "Giám thành trung ngự" thành "thái giám" và "thiếu giám". Đến đầu đời nhà Minh thiết lập "Nhị thập tứ nha môn", mỗi nha môn đặt ra một thái giám giữ ấn tín phục dịch hoàng đế cùng gia thuộc, và người được giữ chức thái giám tất yếu phải là hoạn quan.
Từ đấy, "thái giám" thành danh xưng chuyên chỉ hoạn quan. Đến giữa thời kỳ nhà Minh, quyền thế của thái giám được mở rộng thêm ra. Thái giám có quyền làm sứ giả, trông coi quân đội, coi xét quan lại, dân tình nên trở thành lộng quyền. Đến đời nhà Thanh, xét thấy sự chuyên quyền và tệ hại của thái giám mới đặt ra chức "Tổng quản Thái giám" làm thủ lãnh, lệ thuộc vào "Nội vụ phủ" và giới hạn tước vị đến "tứ phẩm" để nhằm làm giảm quyền lực của thái giám.
Theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc ra đời hoạn quan ở Trung Quốc có ba nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, hoạn quan là những tội phạm, tù binh hoặc phản nghịch bị cắt sinh thực khí. Thư hai, hoạn quan là cống phẩm của địa phương tiến cống vào cung đình. Thứ ba, đó là những người đàn ông tự nguyện xin thiến làm hoạn quan để mưu cầu phú quý. Loại trừ những người bị khiếm khuyết khi sinh ra, đa phần hoạn quan đều phải trải qua những thủ thuật hết sức đau đớn gọi là tịnh thân.
Việc tịnh thân được diễn ra cụ thể như thế nào, sử sách Trung Quốc xưa ghi lại cũng bất nhất. Nhưng nhìn chung, để từ một nam giới bình thường thành một quan hoạn, người đàn ông phải trải qua những nỗi đau đến tàn khốc bậc nhất trong cuộc đời của mình. Lịch sử Trung Quốc đã ghi lại một số cách thức để tạo ra một hoạn quan cho triều đình. Cách thức đầu tiên được gọi với tên “cắt tận gốc”.
(Ảnh minh họa)
Thực hiện phương pháp này, người ta dùng dao sắc hoặc một vật dụng kim loại như kiếm hoặc rìu cắt đứt tận gốc dương vật của nam giới, bao gồm cả phần âm kinh và dịch hoàn. Cách thức này được miêu tả như một hình thức vô cùng tàn bạo. Những người sau khi sử dụng phương pháp này đều rất đau đớn, thậm chí có thể bị hôn mê kéo dài. Cách thứ hai mà người Trung Quốc sử dụng đó là chỉ cắt bỏ dịch hoàn bằng một con dao sắc. Cách thức này nhân đạo ở chỗ, sẽ không cắt hết toàn bộ cơ quan sinh dục.
Mặc dù vậy những người bị cắt bỏ dịch hoàn cũng sẽ không thể quan hệ tình dục và có con. Ngoài hai phương pháp tịnh thân trên, có nhiều gia đình chuẩn bị việc tịnh thân cho con mình tương lai sẽ làm thái giám ngay từ khi còn nhỏ. Một bà mụ sẽ được gia đình thuê để có thể chăm sóc đặc biệt cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi.
Mỗi ngày ba lần, bà mụ sẽ nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ. Lực bóp cũng tăng thêm khi đứa trẻ đó lớn. Chính vì thế cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên, không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai vú nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành “ái nam, ái nữ”.
Theo sách “Mạt đại thái giám bí văn” còn liệt kê một phương pháp thiến nữa là "thằng hệ pháp", tức dùng dây cột chặt dịch hoàn của đứa bé, lâu dần thực khí mất công năng, bị chết đi. Hoặc cho đứa trẻ uống một thứ thuốc tê gọi là ma túy dược, rồi dùng kim chích hoài vào dịch hoàn đứa trẻ khiến cho sinh thực khí không còn công năng nữa.
Thông thường, số người bị nhiễm trùng dẫn tới tử vong do tịnh thân trước khi trở thành quan hoạn không phải là ít. Vào đời vua Tuyên Đức thời nhà Minh, khi tiến hành tĩnh thân cho 1.565 nam giới để thành hoạn quan phục vụ trong triều đình, đã có gần 400 người chết ngay sau đó do bị nhiễm trùng hoặc không cầm được máu. Cũng vào những đời vua tiếp theo, rất nhiều trẻ em nam đã không được sống đến ngày trở thành những viên quan trong nội đình như bố mẹ chúng mong muốn.
Theo sử sách ghi lại, trung bình có ít nhất 20% số người được tịnh thân đã chết trước khi nhìn thấy lầu son gác tía nơi cung vua, phủ chúa. Do đó, ở những đời hoàng đế sau này, người ta đã bắt người làm tịnh thân cùng gia đình phải cam kết về mạng sống hoặc không kiện cáo nếu cuộc phẫu thuật thất bại.
Không những thế, trước khi tiến hành, người có ý định tịnh thân được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp, sau đó được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì với quyết định trở thành hoạn quan hay không. Nếu người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người đó, hai người khác banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa.
Nếu gia đình và bản thân người tịnh thân đều đồng ý thì cuộc tịnh thân mới được tiến hành. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và hai đùi và bệnh nhân được cho uống một thang thuốc mê (ma phế thang), bộ phận sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt.
Cả dương vật lẫn dịch hoàn được cắt xoẹt bằng một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm ngay vào lỗ sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật chặt. Người thái giám lập tức được những “đao tử tượng” dìu đi quanh phòng trong hai, ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa đau đớn, vừa khát nước nhưng không được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau thời điểm ba ngày, vải băng được cởi ra.
Nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công, người bị thiến đã qua được thời kỳ nguy hiểm. Còn nếu như người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín. Lúc này, người thái giám không may chỉ còn có con đường là nằm chờ chết.