Tôi thì cứ hình dung, nếu một ngày, không có các cô các thầy giáo làng như cô Cao Viễn Phương và rất nhiều các thầy cô khác, có lẽ, làng sẽ buồn và cô đơn biết bao nhiêu...
Trước trung thu năm nay nửa tháng, cô giáo Cao Viễn Phương từ huyện Krông Pa xa xôi lặn lội đi xe đò lên thành phố Pleiku để... xin tiền. Sau 2 ngày vừa chơi vừa la cà, tận dụng các mối quan hệ từ đời thường đến... "phây búc", cô xin được hơn 3 triệu đồng tiền mặt, 94 xuất sữa kèm một số lời hứa chuyển khoản... để về tổ chức đêm hội trăng rằm cho trẻ em Jrai trường cô.
Tôi là một trong những người được cô... tiếp cận và cũng có đóng góp chút ít để các cháu Jrai có trung thu và nhờ thế mà hiểu thêm vai trò người thầy cắm bản hiện nay.
Cô giáo cao Viễn Phương (Mũ trắng)
Người Huế, thân gái dặm trường lên Gia Lai, học xong về nơi xa nhất, khó khăn nghèo đói nhất của tỉnh dạy học. Có vẻ như Cao Viễn Phương giờ đã trở thành một phần của Krông Pa. Rất nhiều người nhờ cô giáo này mà biết tới cái huyện Krông Pa xa xôi cách trở, cách Pleiku 150 cây số, là bởi những hoạt động từ thiện của cô và nhóm các cô.
Về các đồng bào dân tộc Tây Nguyên bây giờ, ta sẽ thấy có 2 lực lượng rất quan trọng đối với sự phát triển của làng. Thứ nhất là các hộ người Kinh cắm ở đấy để buôn bán. Một thời ta coi đây là tư thương, là bóc lột và cấm đoán họ. Nhưng chính nhờ họ mà đồng bào học được rất nhiều điều của đời sống văn minh, từ những kiến thức thông thường như ăn chín uống sôi, vệ sinh nhà cửa, thân thể, đến lớn hơn như phòng chữa bệnh, dạy dỗ con cái. Nó cụ thể từ cái chuyện vệ sinh phụ nữ, phòng tránh thai để đẻ ít con như người Kinh, đến trừu tượng hơn là ngoài làng có làng, có thành phố, cho con đi học biết chữ để sau này biết làm sao cũng từ hạt gạo, ngoài nấu thành cơm lại có thể chế biến ra nhiều thứ, như phở, bún, cháo, rồi các loại bánh kẹo.v.v.
Cô giáo Cao Viễn Phương trong một lần cùng đồng nghiệp đi dạy
Lực lượng thứ 2 chính là các thầy cô giáo cắm bản. Họ, chính họ là người có công rất lớn đưa ánh sáng văn hóa về với đồng bào, không phải từ các bài giảng, mà từ chính cách sống, cách sinh hoạt của họ. Các cô giáo bao giờ cũng là một thứ ánh sáng vừa xa lạ, vừa hấp dẫn, vừa bí ẩn, vừa khát khao hướng tới của mọi thành viên trong làng. Cũng là người mà sao lại có những con người “sướng” đến thế, quần áo lúc nào cũng là lượt, người lúc nào cũng thơm tho, cũng đẹp, cái gì cũng biết... và đấy chính là hình mẫu để đồng bào, nhất là thanh thiếu niên trong làng, và học sinh, noi theo.
Họ có biết đâu, phía sau sự hào nhoáng (so với dân làng) là những nỗi cực trăm bề để các thầy cô giáo, nhất là các cô giáo, thực thi nhiệm vụ và hoài bão của mình.
Họ, rất nhiều người đã phải hy sinh tuổi xuân của mình.
Một số thì làm mẹ đơn thân, một số thì lấy chồng là các trai làng, có khi là chính học trò của mình. Số khác may mắn hơn, có các anh chàng là bộ đội biên phòng, giáo viên cùng trường... rước. Nhưng lại có nỗi khổ riêng.
Cao Viễn Phương có 2 con, một trai một gái, chồng đã lấy vợ khác vì suốt ngày thấy cô chỉ đắm đuối với học trò. Cô ở nhờ một căn nhà công vụ bé tí ngay thị trấn, hàng ngày vào dạy ở trường THCS Lê Hồng Phong, xã La HDreh, cách thị trấn khoảng 15km nếu đi đường cầu Phú Cần, khoảng 10km nếu đi đường cầu tạm. Cầu tạm tức là khi nào “tạm” thì có cầu, còn lại là phải đi đò. Mỗi lần qua đò mất 5 ngàn, một ngày cả đi và về là 10 ngàn, mỗi tháng hết gần 3 trăm ngàn, chưa kể có ngày phải đi đi về về 4 bận. Tiền ấy là tiền túi. Cô gọi nhà cô là cái ổ chuột, cô là chuột, tha tất cả những gì mọi người thải ra chất vào đấy, để rồi lại mang về làng phát lại cho học trò.
Cũng từng có người quý, muốn giúp cô về thành phố, hay là về ngay thị trấn cho gần con cái, nhưng cô giãy nảy, thứ nhất là yêu học trò ở đấy, thứ 2 là đi xa thế, cực chút, nhưng có phụ cấp khu vực cao hơn. Mất khoản ấy, tiền đâu nuôi con, mà chúng ngày càng lớn, trăm thứ phải chi.
Phút giây vui vẻ với học trò
Mà cũng là mới nói thế, chứ nghe nói, có giúp đi chăng nữa thì cũng không thể tay không mà chuyển trường được. Giờ nó có giá, có thang bậc cả, các cô ngồi kể vanh vách chuyển về đâu hết bao nhiêu rồi cười như việc ấy là... đương nhiên, và các cô không màng tới. Đây là một đoạn Cao Viễn Phương viết trên facebook của mình: “Chờ đợi không bao giờ là hạnh phúc. Lịch thi, học phí cho mẹ, các khoản đóng góp của con, những con số biết nói đã qua mấy kì trễ hẹn, dàn điện nước và các vật dụng sinh hoạt cần thiết đến lúc phải cải tạo, lời hứa với những trăn trở cùng em trai.... Tất cả đều phải chờ đợi sự có mặt của một thứ vô tri vô giác mà đầy uy quyền. Tiền là cái thứ gì mà phiền phức quá vậy? Đôi chân mệt mỏi này không còn đủ sức để trụ lâu mà đỡ cả bầu trời đâu đấy.
Thôi đành ru lòng mình vậy, vờ như ... tiền lương có rồi!”.
Nhưng quả là, tôi chưa thấy ai yêu nghề, yêu học trò như cô giáo này, và nhiều cô giáo cắm bản như cô Phương. Thì nguyên cái việc cô lặn lội lên thành phố xin tiền tổ chức trung thu cho học trò đã chẳng "kinh" rồi à, trong khi con mình thì không biết có ai tổ chức cho nó không? Cũng nhiều lúc thấy Phương day dứt với con, vì cái sự bỏ con đi suốt ngày với học trò. “Ăn vội tô phở làng, ghé tạm lưng trên những chiếc ghế ghép và thưởng thức những đề xuất của tiến sĩ, cô giáo làng như ả bỗng thấy trưa nay thật yên bình (dù đang ngay ngáy không biết hai nhóc ở nhà tự vật lộn với bữa trưa như thế nào... Chị thì 11h15' mới tan học, mẹ thì trưa ở lại trường đột xuất)!
Chợt nhớ mấy năm nay, giấy chứng nhận giáo viên giỏi của ả từ cấp Trường đến cấp Tỉnh cũng được dăm tờ... Chẳng để làm gì, có chăng là đọng lại bao kỉ niệm. Bỏ thi đi cho anh chị em đồng nghiệp đỡ căng thẳng, học trò đỡ vắng thầy cô, đỡ đảo lộn các sinh hoạt dạy và học mỗi khi kì thi ấy đến, nhỉ các bác ở Bộ?!”
Đường vào trường THCS Lê Hồng Phong, xã La HDreh, nơi cô giáo Cao Viễn Phương đang công tác
Và cô còn làm thơ, đọc bài thơ dưới đây thì hiểu cái tình yêu của cô giáo người Huế với học trò Jrai như thế nào:
"CHUYỆN NÀNG SƠN NỮ
Em...
Sơn nữ Jrai tuổi vừa chạm ngọn trăng tròn trên núi
Tóc mây ngàn bồng bềnh như dòng suối ven nương
Trái tim non ngả nghiêng theo nhịp chiêng đong đưa mùa lễ hội
Xúc cảm đầu đời chưa biết gởi trao ai…
Cái rẫy trên cao không có người vỡ đất
Đàn bò gầy vì thiếu người cắt cỏ, lùa trông
Vài nét chữ có chắp cánh cho em mơ mộng
Ngọn măng rừng thêm xót ruột Amí, Ama
Ngậm ngùi chia xa áo trắng, giấy hồng
Rời lớp học giữa điệu soang đọng mãi
Lưng lẻo nhìn cổng trường khép lại
Tối mai, sơn nữ phải "bắt chồng"
Những cái chữ rớt trên đường lên thăm rẫy
Tương lai đành gửi lại cho đứa trẻ ngủ say trên lưng
Chiều sông Ba gió thôi lùa tóc cháy
Mắt thôi cười, môi thôi mọng
Hương núi rừng trinh nguyên giờ thơm vị sữa của con thơ...
Sơn nữ giấu giọt nước mắt mặn mùi khói bếp
Lặng lẽ vụng về sắp xếp những lo toan vào kỉ vật:
Quyển sách cũ ố vàng màu thời gian
Chiếc thước kẻ đo gang những ngày em làm mẹ
Bút
Vở
Mảnh giấy màu xé dở
Nằm lẻ loi trong mớ áo váy thuở đến trường
Vài giọt nước mắt vương - nghĩ về tương lai mờ mịt
Em!
Đừng nỡ chôn ngày mai trong cái nhìn khờ dại
Chẳng thể mãi theo chân thằng chồng trẻ khật khưỡng say với gã mặt trời
Đến trường em nhé! Hãy cùng tôi viết tiếp ước mơ dang dở!
Cánh cổng trường đang rộng mở đón chờ em..."
Tôi thì cứ hình dung, nếu một ngày, không có các cô các thầy giáo làng như cô Cao Viễn Phương và rất nhiều các thầy cô khác, đời sống ở làng sẽ ra sao. Mà không cứ các làng đồng bào dân tộc nhé, rất nhiều làng người Kinh cũng thế, vai trò của các thầy cô giáo cực lớn, nếu không có họ, làng buồn và cô đơn biết bao nhiêu...