Câu chuyện cổ tích ngợi lòng thủy chung son sắc, không bao giờ từ bỏ hy vọng trước những khó khăn trong cuộc sống.
Nội dung truyện cổ tích chàng Lihik và nàng Ma Talah
Ngày xưa có hai người yêu nhau, người con gái tên là Ma Talah, người con trai tên là Lihik. Hai người yêu nhau rất say đắm và chung thủy, nhưng vì không cùng chung một làng nên cha mẹ, họ hàng đều rầy la, tìm mọi cách chia rẽ hai người.
Nơi đầu làng có một gò đất nhỏ, có chất một đống rơm, họ lấy làm nơi hẹn hò gặp gỡ. Ngày ngày cứ xong bữa chiều, nàng và chàng lại ra nơi hẹn hò để cùng nhau trao đổi tâm tình, than duyên trách số cho mãi đến khuya mới chia tay ra về.
Rồi một đêm nọ, như thường lệ, người con gái đến bên đống rơm chờ chàng. Hôm đó, người con trai có chút việc bận nên ra chỗ hẹn hơi muộn. Khi chàng đến nơi thì không thấy người yêu đâu cả. Tìm loanh quanh một lúc, người con trai mới thấy chiếc khăn của người yêu đánh rơi cạnh đó. Như có linh tính báo chuyện không lành xảy ra với người yêu, chàng cảm thấy hoảng hốt và lo sợ, cầm lấy khăn của người yêu lủi thủi đi về.
Đêm ấy, chàng Lihik lo lắng, đứng ngồi không yên cho đến tận sáng. Khi nghe tiếng con chim bìm bịp vừa gọi sáng, chàng Lihik mở cửa đi ra chỗ đống rơm nọ để xem xét. Đúng như điều chàng suy đoán, nàng bị con Hà Niêu đực (con tinh cọp hình người), rình bắt đi làm vợ, chứ không phải bị thú dữ vồ ăn thịt, vì không thấy vết máu chảy, hoặc có dấu vết gì chứng tỏ điều đó. Chàng buồn bã trở về nhà nghĩa cách tiêu diệt Hà Niêu, cứu người yêu.
Ảnh minh họa.
Từ hôm đó, Lihik thường hay lui tới thăm hỏi những người làng hay lên buôn bán ở vùng núi cao. Cuối cùng, chàng ngỏ ý muốn cùng được đi buôn theo. Những người này đều vui lòng cho chàng đi cùng. Được họ nhận lời, chàng về nhà chuẩn bị các thứ cho chuyến đi buôn sắp tới. Họ đã hẹn ngày lên đường.
Sau mấy ngày trèo đèo lội suối, ngủ rừng, ngủ bụi, đoàn người đã lên đến những buôn làng xa tít tắp chân trời và ngọn núi liền nhau làm một. Đến một khu rừng nọ, có những cây to bằng mấy người ôm, không một dấu chân người, Lihik đoán chắc đây là vùng Hà Niêu ở, nên trong lúc mọi người đi cùng không để ý, chàng liền tách ra, luồn vào rừng sâu, trèo hết ngọn núi này sang đến bờ khe khác, chui hết hang sâu này đến hang nông nọ để tìm nơi Hà Niêu.
Chàng đi như vậy đã mấy hôm liền mà vẫn chưa tm thấy người yêu. Rồi một buổi chiều, đến một cái hang nọ, trước cửa hang có cây to bằng mấy người ôm, ngước nhìn hút tầm mắt chưa hết ngọn, Lihik thấy Ma Talah đang ngồi trên một đống lửa trước miệng hang. Chàng mừng quá vội lên tiếng gọi. Ma Talah giật mình ngoảnh lại. Thấy đúng chàng Lihik, nàng vô cùng sung sướng.
Nhưng nàng trấn tĩnh ngay được. Nàng ra hiệu cho Lihik không được nói to. Rồi nàng chạy nhanh đến bên người yêu nức nở khóc. Mãi sau này nàng mới hỏi được là ai đã chỉ cho chàng biết nơi này và làm thế nào chàng đến đây được. Đang mải chuyện chưa dứt, bỗng gió bão nổi lên ầm ầm. Biết là Hà Niêu đực sắp về, nàng Ma Talah vội khuyên chàng Lihik hãy bình tĩnh chạy trốn và tìm cách nhanh giết con tinh cọp. Theo tay chỉ của nàng Ma Talah, Lihik trèo vội lên cây đại thọ cao nhất trước của hang.
Vừa trèo lên được tới ngọn, chàng nhìn xuống đã thấy Hà Niêu đực ngoạm một con thú đi tới. Nó đến trước mặt nàng Talah, mắt đỏ ngó láo liên, khịt mũi, rồi hỏi nàng:
– Có người lạ đến đây, hình như còn quanh quẩn đâu đây. Để ta xem kẻ nào lớn gan làm vậy?
Nàng Talah nghe Hà Niêu nói vậy, biết là không thể giấu nó được nên tỏ vẻ âu yếm nói với nó:
– Có ai là kẻ gian lại cả gan đến chốn này đâu. Chỉ có người anh tôi vừa lặn lội tìm đến thăm. Vì lúc ông đem tôi lên đây thì cả nhà, cha mẹ, anh em đều nhớ nhung thương tiếc, nên mới cho anh tôi đến tìm. Nhưng vì sợ ông không ưng nên anh tôi tạm lánh trên ngọn cây cao kia.
Hà Niêu đực nghe Talah nói liền tưởng thật nên bảo nàng cho gọi người anh xuống để anh em được gặp mặt chuyện trò. Nàng Talah nhìn Hà Niêu có vẻ thực bụng, lấy làm vững lòng, gọi Lihik xuống.
Tối hôm ấy, chàng Lihik được con cọp đón tiếp như người nhà. Chàng lựa nói với Hà Niêu rằng chàng rất mừng khi thấy em gái sống yên lành, và ngày mai chàng sẽ trở về báo tin cho gia đình biết. Hà Niêu nghe vậy liền bảo chàng Lihik hãy cố nán đợi để mình đi kiếm thức gì về gửi làm quà biếu cho cha mẹ.
Suốt đêm hôm ấy, cả chàng Lihik và nàng Talah trằn trọc không ngủ tìm mưu kế. Riêng Hà Niêu, vì không hay biết gì nên vẫn ngáy ngon lành.
Khi tiếng con gà rừng vừa gọi sáng, Hà Niêu đã thức giấc. Nó nhẹ nhàng chui ra khỏi miệng hang rồi phóng nhanh vào rừng sâu. Chờ Hà Niêu đi khỏi, hai người cũng ra khỏi hang, lấy củi lấp cửa hang lại, rồi nổi lửa đốt. Thấy lửa bén đã kỹ, họ dắt nhau chạy xuống núi nhằm hướng đông mà chạy. Hai người lặn lội được một lúc thì đến một thung lũng có một con sông rộng, nước chảy mạnh như thác đổ. Trong lúc hai người đang loay hoay bối rối tìm cách qua con sông thì có một con thỏ trong bụi cạnh đấy chui ra hỏi:
– Hai người muốn đi qua con sông này phải không?
Chàng Lihik và nàng Ma Talah liền thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho thỏ nghe, những mong thỏ may ra có thể có cách gì giúp mình vượt sông. Thỏ nghe hai người kể xong, bèn thưa:
– Hai người cứ đi mau theo dòng sông này, chừng nửa dặm sẽ có một bến đò, rồi nhờ họ đưa qua. Tôi đợi đây đón đường và lừa Hà Niêu, nếu nó đuổi theo.
Hai người hết lời cảm ơn rồi hối hả đi theo lời mách của thỏ.
Nói về con Hà Niêu đực, từ khi chui ra khỏi hang thì chạy khắp rừng sâu để lùng bắt mồi. Mãi đến trưa mới về được một con lợn rừng, nó bèn vội mang về. Nhưng khi về tới nơi thì đã thấy đống lửa đang cháy rừng rực trùm kín cửa hang.
Hà Niêu lăn lộn tìm đường vào hang cứu hai đứa người nhưng không được nữa. Hà Niêu gọi Talah và “người anh trai vợ” đến khản cả tiếng, nhưng chỉ nghe thấy tiếng nhại lại của núi rừng, mà chẳng nghe tiếng đáp lại của hai người. Biết mình đã mắc lừa, Hà Niêu lồng lộn tức giận, gầm lên như điên dại, rồi phóng nhanh xuống núi đuổi theo hai người.
Từ xa, thỏ thấy Hà Niêu với vẻ hung hăng lồng lộn, đang phóng thục mạng về phía mình, bèn lựa lời nói:
– Chào ngài Hà Niêu. Có việc gì vội thế? Chắc ngài đang đuổi theo cặp trai gái vừa dắt nhau qua đây?
Hà Niêu nghe thỏ nói có hai người đi qua đây, liền hỏi ngay:
– Ngươi thấy hai người qua đây lâu chưa? Chúng nó đi theo đường nào? Hãy chỉ cho ta mau!
Nghe giọng nói hách dịch của Hà Niêu, thỏ đã bực nhưng vẫn làm ra vẻ từ tốn trả lời:
– Ngài làm gì mà nóng thế. Hãy ngồi nghỉ để nghe tôi kể. Đúng là có hai người qua đây, không biết từ đâu tới và họ đã nhờ tôi đưa đường giúp qua sông này. Nếu ngài cần tôi sẽ giúp. Ngài hãy vào rừng lấy về đây một vác dây mây.
Nghe nói vậy, Hà Niêu liền nhảy ngay vào rừng. Một thoáng sau nó vác về một đống mây nước. Thỏ lại bảo Hà Niêu dùng mây đan thành một cái giỏ hai đầu to ở giữa thắt lại. Sau đó thỏ lại bảo Hà Niêu nhặt một hòn đá to bỏ vào một đầu, rồi chui vào đầu giỏ kia.
Thỏ nói dối rằng đó là cái đò để giúp Hà Niêu vượt sông được chóng và chắc chắn, cho đá vào để khi sang ngang sẽ không bị trôi theo dòng thác. Hà Niêu tuy to xác, hung dữ nhưng tối trí, nên nghe thỏ nói sao thì làm theo vậy. Hà Niêu vừa nhảy xuống sông thì chìm nghỉm tức khắc.
Lại nói về chàng Lihik và nàng Talah, theo lời thỏ, hai người đi một lúc thì đến một bến đò. Trên bến có hai người đàn ông mặc toàn đồ tang, đầu cũng bịt khăn trắng. Nhìn thấy có hai người xuống bến đò, họ liền chèo thuyền độc mộc tới, hỏi:
– Hai người định qua sông phải không? Chúng tôi là người tu hành, sống ở bến sông này từ lâu, chuyên đưa người qua sông làm phước. Nhưng chiếc đò không thể chở một lúc hai người, phải làm hai chuyến. Vậy ai sang trước thì hãy bước xuống để chúng tôi đưa sang ngay kẻo lỡ.
Suy nghĩ một lúc, Lihik cho người yêu sang trước. Hai người lái đò là hai vị thầy tu Paseh: một vị đã lên chức Paseh puah, chức cao nhất, trong đạo Bà La Môn. Vị kia mới lên chức Paseh liah, tức thầy nhì. Trước nhan sắc kiều diễm của nàng Talah, cả hai vị tu hành đều ngây ngất đắm say. Cả hai đều thầm muốn chiếm đoạt người con gái đẹp.
Khi chiếc thuyền độc mộc vừa cập bến thì bỗng nhiên thầy Paseh liah ngã lăn ra chết. Vị tu hành kia vẫn thản nhiên giục nàng Talah lên bờ, mắt đăm đắm không rời nàng. Thấy vậy nàng Talah giật mình hoảng sợ. Nhưng rồi nàng trấn tĩnh được ngay để tìm cách đối phó. Nàng suy nghĩ rất nhanh, rồi lựa lời hỏi lão:
– Lạ quá ! Chẳng hay chiếc gậy của thầy dùng làm gì mà một đầu nhọn một đầu tù?
Vị thầy tu nghe nói hỏi bèn cười tít mắt đáp:
– Đây là chiếc gậy thần, đầu nhọn dùng để cứu người, đầu tù dùng để giết người.
Nàng Talah sực nhớ lúc đò sắp cập bến, lão ta quả có cầm gậy này chỉ vào kẻ xấu số nọ, và người đó ngã lăn ra chết tức khắc. Nàng hơi hoảng, nhưng ngay lúc đó nghĩ ra được kế hay. Đến bên hắn, nàng trầm trồ khen hắn là người tài cao đắc đạo nên mới có được cây gậy thần quý giá như vậy. Ra vẻ âu yếm, nàng thỏ thẻ:
– Người có thể cho em chiêm ngưỡng cây gậy quý này một lát được chăng?
Tưởng đã chiếm được lòng nàng, vị thầy tu háo sắc không hề lưỡng lự liền đưa gậy cho nàng. Cầm cây gậy trên tay, nàng tấm tắc khen, rồi bất thình lình trong lúc thầy tu sơ ý, nàng liền chỉ ngay đầu tù vào gáy hắn. Lão thầy tu hám sắc lăn ra đất chết liền. Vì Talah và người yêu lạc nhau, chờ mãi cũng không gặp, nàng đành lấy y phục của tên thầy tu để cải trang thành người tu hành, cầm cây gậy thần nhằm hướng đông đi tới.
Đến một xứ nọ, nàng thấy một đoàn người toàn đàn bà con gái, đang đi đội nước từ cái giếng đầu làng. Nàng hỏi một người con gái:
– Chẳng hay bữa nay làng ta có hội gì lớn mà nhộn nhịp vậy?
Người con gái nọ lễ phép đáp:
– Thưa thầy, hôm nay là lễ hoả táng cho công chúa Hala Muk của chúng tôi vừa mới qua đời.
Thầy tu cải trang tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi nói to, cố ý để mọi người đều nghe tiếng:
– Sao không cứu công chúa sống lại mà lại hoả táng? Bên xứ tôi, nếu người lương thiện bị chết thì được cứu cho sống lại. Tôi là Paseh đã từng cải từ hoàn sinh cho nhiều người.
Cả đám đội nước nghe vậy liền hối hả về triều báo cho nhà vua biết chuyện lạ. Nhà vua nửa tin nửa ngờ, bèn sai người mời thầy tu vào hỏi:
– Trẫm xin hỏi có phải ngài là một vị thầy tu có phép thần thông, có thể cải tử hoàn sinh? Nếu quả như vậy thì xin thầy hãy rủ lòng thương cứu sống cho ái nữ của trẫm. Nếu công chúa sống lại, trẫm sẽ gả con gái cho khanh, cấp cho khanh đất đai, của cải, binh gia.
Nàng Talah (tức thầy tu cải trang) cúi đầu tâu:
– Muôn tâu bệ hạ, thần hèn mọn xin được lĩnh chiếu.
Sau khi công chúa Hala Muk được cải tử hoàn sinh, nhà vua giữ lời hứa: tổ chức lễ thành hôn, ban đất đai, của cải và binh lính cho vị thầy tu Paseh. Khoảng gần một tháng sau ngày cưới, công chúa ủ dột, khóc lóc tâu với mẫu hậu và vua cha vì không hiểu lẽ gì mà phò mã không chịu chung chăn gối. Nhà vua cho đòi phò mã vào hỏi xem có điều gì uẩn khúc. Nàng Talah bèn tâu:
– Muôn tâu thánh thượng, sở dĩ hạ thần buồn lo vì chuyện riêng, người anh của hạ thần bị lạc đã gần một năm, hạ thần có đi tìm nhưng chưa gặp. Nay trên đường tìm, thần được bệ hạ đòi đến cứu công chúa. Vì chưa gặp được anh nên hạ thẩn không thể vui vẻ hưởng lạc thú được.
Nhà vua nghe tâu, liền tươi cười nói:
– Trẫm tưởng việc gì làm phò mã bận tâm. Con là người có nghĩa có tình, trẫm sẽ giúp con tìm được anh trai mình. Con cứ an tâm.
Đoạn nhà vua truyền cho mở hội mừng thọ, loan truyền mọi người phái đến dự. Từ khắp mọi nơi công chúng kéo đến rất đông.
Suốt hơn chục ngày hội, nàng Talah vẫn chưa thấy người tới. Đang sắp tuyệt vọng thì bỗng một hôm nàng nhìn thấy từ xa có một người giống chàng Lihik đi lại. Nàng Talah liền nói với nhà vua cho mời chàng trai nọ đến.
Nhìn vị thầy tu trong bộ y phục, Lihik đã ngờ ngợ. Khi vị thầy tu khẽ gọi tên chàng, thì chàng không còn ngờ mình nhìn nhầm nữa, hai người quấn quýt nhau thở than kể sự tình trong những ngày sống xa cách. Rồi cả hai người đến quỳ trước mặt nhà vua tâu trình mọi sự về mối tình éo le của mình, và cũng xin đức vua rộng lượng cho hai người se duyên cầm sắt, kết tóc trăm năm.
Nhà vua và hoàng hậu khi nghe rõ sự tình uẩn khúc của hai người thì cảm động lắm, nhà vua bèn truyền:
– Ôi! Thật là những tấm lòng cao đẹp. Trước mặt bá quan, ta tác duyên cho hai người. Vị thầy tu cải trang này vì có mối tình sâu nặng nên được làm chính thê, con gái trẫm đi sau, và được nàng cứu sống nên trẫm thuận gả cho Lilik làm thứ phi, cùng Talah kết nghĩa chị em. Nay trẫm đã tuổi già sức yếu lại có một ái nữ duy nhất, nên xin nhường ngôi cho phò mã lên kế vị, sửa trị ngôi trời và chăm dắt muôn dân.
Nghe vua truyền lệnh xong, bá quan văn võ đều mừng tung hô vạn tuế, cùng chúc cho tân hoàng đế Lihik cùng hoàng hậu Talah, thứ phi Hala Muk chăm dân trị nước được phồn thịnh.
Thử tài trí nhớ qua những câu đố vui