Quy hoạch kho số viễn thông mới giúp độ dài quay số khi gọi đường dài trong nước hoặc gọi từ mạng di động đến thuê bao điện thoại cố định là thống nhất trên toàn quốc: Đều là 11 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia "0".
Ngày 7.1, Bộ Thông tin & Truyền thông đã có thông báo giải thích rõ hơn về Thông tư Ban hành Quy hoạch kho số viễn thông. Theo đó, quy hoạch mới nhằm phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và thông lệ quốc tế, các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết.
Đồng thời, đảm bảo công bằng, minh mạch đối với doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ; hạn chế tối đa ảnh hưởng không tích cực có thể phát sinh đối với doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ.
Theo thực tế đang sử dụng, độ dài mã vùng là 1, 2 hoặc 3 chữ số, độ dài số thuê bao là 7 hoặc 8 chữ số. Cụ thể, TP Hà Nội và TPHCM có độ dài mã vùng là 1 chữ số (4 và 8), độ dài số thuê bao cố định đều là 8 chữ số. Trong khi đó, 37 tỉnh, thành phố có độ dài mã vùng 2 chữ số; 24 địa phương còn lại có độ dài mã vùng là 3 chữ số. Ngoài TP Hà Nội và TPHCM, 61 địa phương còn lại đều có độ dài số thuê bao là 7 chữ số.
Vì vậy, độ dài quay số khi gọi đường dài trong nước hoặc gọi từ mạng di động đến thuê bao điện thoại cố định là không thống nhất, tùy theo tỉnh/thành phố mà độ dài quay số là 10 hoặc 11 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’. Với việc không có sự thống nhất trong độ dài quay số dẫn đến dễ gây nhầm lẫn và khó nhớ đối với người sử dụng dịch vụ.
Kể từ 1.3, độ dài mã vùng của TP Hà Nội và TPHCM là 2 chữ số (24 và 28); 61 tỉnh/thành phố có độ dài 3 chữ số
Bộ TT&TT cho biết, quy hoạch mới đã giải quyết bất cập này bằng việc quy hoạch độ dài mã vùng là 2 hoặc 3 chữ số, độ dài số thuê bao điện thoại cố định giữ nguyên là 7 hoặc 8 chữ số phụ thuộc vào vùng đánh số cụ thể.
Kể từ 1.3, độ dài mã vùng của TP Hà Nội và TPHCM là 2 chữ số (24 và 28); 61 tỉnh/thành phố có độ dài 3 chữ số. Về độ dài số thuê bao điện thoại cố định thì vẫn giữ nguyên như hiện tại.
Như vậy, độ dài quay số khi gọi đường dài trong nước hoặc gọi từ mạng di động đến thuê bao điện thoại cố định là thống nhất trên toàn quốc, đều là 11 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’.
Theo thống kê của Bộ TT&TT, những năm vừa qua số lượng thuê bao điện thoại di động ngày càng tăng, ngược lại số lượng thuê bao điện thoại cố định ngày càng giảm. Xu hướng suy giảm số thuê bao điện thoại cố định có thể vẫn diễn ra trong những năm tới.
Hiện tại, tổng số thuê bao điện thoại cố định và di động khoảng 130 triệu. Trong đó số lượng thuê bao điện thoại cố định khoảng gần 7 triệu (chiếm khoảng 5,4%), số lượng thuê bao điện thoại di động khoảng hơn 120 triệu (chiếm khoảng 94,6%).
Trong khi đó, tổng số đầu mã tối đa có thể quy hoạch làm mã vùng và mã mạng là 9. Theo quy hoạch cũ thì số đầu mã làm mã vùng cho mạng cố định là 7 và làm mã mạng cho mạng di động là 2. Điều này bộc lộ sự thiếu hiệu quả trong quy hoạch, sử dụng kho số giữa mạng cố định và mạng di động. Về lâu dài, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường viễn thông di động sẽ dẫn đến thiếu số cho di động trong khi thừa số cho cố định.
Quy hoạch mới đã giải quyết bất cập này bằng việc quy hoạch 1 đầu mã làm mã vùng; 8 đầu mã làm mã mạng. Trong đó 6 đầu mã làm mã mạng cho mạng di động, 1 đầu mã làm mã mạng sử dụng cho thuê bao di động là thiết bị và 1 đầu mã làm mã mạng cho các mạng viễn thông khác như mạng viễn thông cố định vệ tinh, mạng viễn thông dùng riêng, mạng điện thoại Internet và dự phòng.