Hiện nay dữ liệu về nhiễm đậu mùa khỉ trong thai kỳ còn hạn chế, chưa đánh giá được người mang thai có dễ bị nhiễm virus đậu mùa hơn hay bệnh sẽ nặng hơn trong thai kỳ.
Virus đậu mùa khỉ có thể được truyền sang thai nhi trong khi mang thai hoặc cho trẻ sơ sinh khi tiếp xúc gần trong và sau khi sinh. Các kết quả bất lợi khi mang thai, bao gồm sảy thai tự nhiên và thai chết lưu đã được báo cáo trong các trường hợp đã xác nhận nhiễm bệnh đậu khỉ trong thai kỳ. Sinh non và nhiễm đậu mùa khỉ sơ sinh cũng đã được báo cáo. Tuy nhiên, tần suất và các yếu tố nguy cơ đối với mức độ nghiêm trọng và các kết cục bất lợi cho thai kỳ vẫn chưa được biết.
Để so sánh, bệnh đậu mùa, một căn bệnh gây ra bởi một loại virus orthopoxvirus tương tự (virus Variola) đã bị loại trừ vào năm 1980, có những biểu hiện nghiêm trọng hơn bệnh đậu mùa khỉ và có liên quan đến bệnh nặng hơn trong thời kỳ mang thai, bao gồm các biến chứng xuất huyết và tử vong. Sảy thai, thai chết lưu, sinh non và nhiễm trùng bẩm sinh đã được báo cáo trong các trường hợp nhiễm virus Variola trong thai kỳ.
Sinh non và nhiễm đậu mùa khỉ sơ sinh cũng đã được báo cáo.
1. Dấu hiệu và triệu chứng
Các dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm virus đậu mùa khỉ ở những người đang mang thai xuất hiện tương tự như ở những người không mang thai bị nhiễm virus đậu mùa khỉ, bao gồm các triệu chứng tiền căn (ví dụ: sốt, nhức đầu, nổi hạch, khó chịu, đau họng và ho) và phát ban.
Trong thời kỳ mang thai, nguyên nhân gây sốt có thể khó phân biệt với các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như nhiễm trùng trong buồng trứng (viêm màng đệm), cho đến khi phát ban xuất hiện.
Phát ban ở người đang mang thai có các yếu tố nguy cơ nhiễm virus đậu mùa khỉ cần được phân biệt với bệnh da liễu trong thai kỳ, bao gồm cả phát ban đa hình khi mang thai (còn được gọi là sẩn và mảng sẩn ngứa khi mang thai). Ngoài ra, các tổn thương đậu mùa khỉ có thể giống với các tổn thương trong các bệnh nhiễm trùng khác.
Những bệnh nhân bị phát ban ban đầu được coi là đặc trưng của các bệnh nhiễm trùng phổ biến hơn (ví dụ như varicella zoster hoặc các bệnh lây truyền qua đường tình dục) nên được đánh giá cẩn thận về phát ban đậu mùa khỉ đặc trưng, và xét nghiệm chẩn đoán nên được xem xét, đặc biệt nếu người đó bị các yếu tố nguy cơ dịch tễ học đối với nhiễm virus đậu mùa khỉ.
Các trường hợp đồng thời nhiễm virus đậu mùa khỉ và các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STI) đã được báo cáo và sự hiện diện của bệnh lây truyền qua đường tình dục không loại trừ bệnh đậu mùa ở khỉ, do đó khuyến khích phương pháp xét nghiệm rộng rãi.
Khi có chỉ định, việc điều trị virus đậu mùa khỉ nên được áp dụng cho những người đang mang thai, mới mang thai hoặc đang cho con bú.
Hầu hết người lớn không mang thai bị nhiễm virus đậu mùa khỉ thường bị bệnh nhẹ và tự khỏi, nhưng những người đang mang thai, mới mang thai và đang cho con bú nên được ưu tiên điều trị y tế nếu cần. Điều này là do có thể tăng nguy cơ mắc bệnh nặng trong thai kỳ, nguy cơ lây truyền cho thai nhi trong khi mang thai hoặc cho trẻ sơ sinh khi tiếp xúc gần trong và sau khi sinh, và nguy cơ nhiễm trùng nặng ở trẻ sơ sinh.
Khi có chỉ định, việc điều trị virus đậu mùa khỉ nên được áp dụng cho những người đang mang thai, mới mang thai hoặc đang cho con bú. Những rủi ro và lợi ích của việc điều trị nên được thảo luận với bệnh nhân bằng cách đưa ra quyết định chung. Theo dõi chặt chẽ bệnh nặng và các biến chứng thai kỳ là quan trọng.
2. Chuyên gia sản khoa khuyên thai phụ mắc đậu mùa khỉ sinh mổ
Phụ nữ mang thai bị bệnh đậu mùa khỉ sẽ được khuyên sinh mổ để tránh lây nhiễm cho con trong khi sinh. Edward Morris, một trong những tác giả và chủ tịch của Đại học Sản phụ khoa Hoàng gia cho biết : "Chúng tôi nhận thức được rằng trẻ sơ sinh và trẻ em có nguy cơ bị bệnh nặng hơn nếu chúng mắc bệnh đậu mùa khỉ." Vì vậy, để giảm thiểu nguy cơ em bé nhiễm virus, các nhà nghiên cứu khuyến nghị các chuyên gia y tế thảo luận về lợi ích và rủi ro của việc sinh mổ với phụ nữ mang thai hoặc người đã hoặc nghi ngờ có virus.
Morris và các đồng nghiệp đã tập hợp các bằng chứng hiện có về chẩn đoán, điều trị bệnh đậu mùa khỉ và các chế độ sinh được khuyến nghị cho bà mẹ và trẻ sơ sinh.
"Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố rằng có thể có những hậu quả bất lợi cho phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh nếu họ bị nhiễm bệnh, bao gồm bệnh đậu mùa khỉ bẩm sinh, sảy thai hoặc thai chết lưu, đó là lý do tại sao chúng tôi đưa ra hướng dẫn rõ ràng cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe", Morris nói.
Virus đậu mùa khỉ thường lây lan qua tiếp xúc trực tiếp, các giọt nhỏ hoặc các bề mặt và đồ vật bị ô nhiễm. Nhưng một số bằng chứng hạn chế cho thấy virus có thể truyền từ mẹ sang con qua nhau thai, có thể dẫn đến bệnh đậu mùa khỉ bẩm sinh.
Hơn nữa, các bà mẹ có thể truyền virus trong hoặc sau khi sinh. Mặc dù không có bằng chứng nào về phương pháp sinh tối ưu, nhưng một phụ nữ mang thai bị nhiễm trùng đậu mùa khỉ đang hoạt động có thể chọn tránh sinh qua đường âm đạo để giảm tiếp xúc trực tiếp.
Nếu các tổn thương bộ phận sinh dục được xác định trên một phụ nữ mang thai, thì một ca sinh mổ sẽ được khuyến khích. Nếu một người hoặc phụ nữ mang thai đã nghi ngờ hoặc xác nhận mắc bệnh đậu khỉ, một ca sinh mổ sẽ được đưa ra sau khi thảo luận về nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh có thể nghiêm trọng.
Sau khi sinh, việc tiếp xúc gần gũi cũng có thể làm lây lan virus. Để giảm thiểu rủi ro, Morris và nhóm nghiên cứu khuyến cáo nên cách ly em bé khỏi các thành viên trong gia đình đã xác nhận hoặc nghi ngờ mắc bệnh đậu khỉ và theo dõi cẩn thận để phát hiện nhiễm trùng.
Các bà mẹ bị nhiễm bệnh đậu mùa khỉ cũng nên tránh cho con bú để giảm nguy cơ lây lan virus cho trẻ sơ sinh của họ. Nhưng để hỗ trợ việc cho con bú sau khi bị nhiễm trùng, các bà mẹ có thể vắt sữa và vắt bỏ sữa cho đến khi hết thời gian cách ly.
Nghiên cứu vẫn đang tiếp tục về tác động của bệnh đậu mùa khỉ đối với phụ nữ mang thai.
3. Phụ nữ mang thai bị nhiễm bệnh cũng có thể cân nhắc việc tiêm phòng
Trong đợt bùng phát hiện nay, các tổ chức y tế công cộng khuyến cáo các bác sĩ nên tiêm vaccine cho những người tiếp xúc với những trường hợp đã được xác nhận, bao gồm cả những người đang mang thai.
Theo Edward Morris và các đồng nghiệp, phụ nữ mang thai bị nhiễm bệnh cũng có thể cân nhắc việc tiêm phòng. Tiêm phòng trong vòng 14 ngày sau khi phơi nhiễm không ngăn ngừa được bệnh nhưng có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
Lưu ý, phụ nữ mang thai và mọi người nên được khuyến khích thảo luận về những rủi ro và lợi ích của việc tiêm chủng, bao gồm các tác dụng phụ có thể xảy ra, với chuyên gia chăm sóc sức khỏe trước khi đưa ra quyết định cuối cùng của họ.