"Bữa cơm, một mình một mâm, ngồi góc nào cũng lệch, nhiều đêm khơi ngọn đèn dầu tôi chỉ biết tâm sự với cái bóng cho đỡ buồn, đỡ tủi", tâm sự của một người đàn bà ở dốc không chồng.
Tuổi thanh xuân bỏ lại nông trường
Chúng tôi đến đồi C5 của Công ty 705 (xã Ia Krái, huyện Ia Grai, Gia Lai) vào một ngày giữa tháng 10. Không khó khăn lắm để tìm ra nơi ở của những nữ công nhân khổ hạnh, không chồng. "Dốc không chồng" là một con dốc cao và sâu, nằm cheo leo trên sườn đồi C5. Nơi đây có 6 nóc nhà ọp ẹp, nằm dựa vào nhau chống lại luồng gió thổi thông thốc từ bên kia sườn đồi trườn sang.
Cả con dốc dài hun hút chỉ có 6 người phụ nữ và 11 người con nương tựa vào nhau mà sống. Điều bất ngờ là cả 6 người phụ nữ này đều chưa một lần được mặc áo cô dâu. Và tất nhiên, những đứa con của họ cũng chẳng hề có một người cha hợp pháp.
Vắng lặng, nghèo nàn là những gì chúng tôi chứng kiến khi đến thăm khu xóm. Cả 6 nóc nhà đều vắng bóng người, hỏi thăm mãi mới có một bé gái ra chào. Thấy người lạ, bé gái ngượng ngùng hỏi khách: "Cô chú gặp mẹ cháu ạ! Để cháu ra lô gọi mẹ về. Mẹ cháu không có điện thoại nên hơi khó tìm, cô chú chờ mẹ cháu một xíu nhé!", nói rồi cô bé chạy vụt đi, mất hút trong lô cà phê rậm rạp.
Tất tả chạy về đón khách trong bộ quần áo thủng lỗ chỗ, bà Nguyễn Thị Thảnh trông già hơn cái tuổi 62 của mình. Dẫn khách vào nhà, bà cứ khoe mãi về căn nhà tình nghĩa mới được Hội Liên hiệp Phụ nữ hỗ trợ.
Cư dân của “Dốc không chồng” tâm sự về những ngày đã qua.
Rót ly nước mời khách, bà Thảnh nhớ về những ngày đã xa. Năm 1986, hàng trăm thanh niên từ vùng đất Hải Dương xa ngái xung phong đi làm công nhân quốc phòng cho Sư đoàn 359 (bây giờ là Công ty 705, Gia Lai).
Tuổi xuân của họ bỏ lại nông trường khi đi khai hoang vỡ đất trồng cà phê, cao su. Họ phải đối diện với bom đạn còn sót lại sau chiến tranh hay những đàn muỗi, vắt bủa vây nơi rừng thiêng nước độc. Bao khó khăn vất vả khi đi khai phá vùng đất mới cứ thế vẽ những nét chân chim lên khuôn mặt từng người.
"Lúc đi, chúng tôi chỉ mới tuổi đôi mươi nên ai cũng háo hức, lao đầu vào việc. Vào đây rừng thiêng nước độc, hoang vu lắm, chỉ rừng với rừng, muỗi vắt dày đặc. Có đợt, tôi bị sốt rét rừng vàng da, rụng tóc. Mặc cuộc sống khó khăn trăm bề, ăn uống chẳng no đủ, có bữa phải ăn mít luộc thay cơm. Khó khăn là vậy nhưng chị em đều đồng lòng vượt qua!", bà Thảnh kể.
Năm 1993, do nông trường làm ăn thua lỗ và thay đổi phương thức quản lý trong canh tác cà phê nên các công nhân này dần dần bị cho thôi việc. Quá lứa lỡ thì, những nữ công nhân chưa "một lần đò" chẳng dám ngó mặt về quê. "Nhớ quê hương lắm, nhớ cha mẹ người thân, nhưng chẳng xoay xở đâu ra tiền để về, mà dù có tiền cũng không mặt mũi nào về quê nữa. Lúc ấy mấy chị em chả biết làm gì cứ ôm nhau khóc", bà Thảnh buồn rầu.
Không "mảnh đất cắm dùi", họ đành ngậm ngùi rủ nhau lên khoảnh đất trống trên đồi C5 dựng chòi tạm mấy chục mét vuông để che mưa che nắng, đi làm thuê kiếm cơm qua ngày. Thế rồi trong cái đám "xuân xanh ấy", những người phụ nữ còn xuân cũng lần lượt ra đi, tìm cho mình bến bờ hạnh phúc.
Chỉ còn lại 6 người phụ nữ vì đã quá thì chẳng thể kiếm được chồng. Đó là bà Thảnh, bà Dựng, bà Bóng, bà Ngoan, bà Hương, bà Hồng. Họ túm tụm lại với nhau cho vơi bớt tủi hờn. Những lúc một mình trong căn nhà dột nát, những người đàn bà chưa một lần được yêu lại ước ao có bàn tay đàn ông để đỡ đần khi mưa gió. Rồi cũng từ đây họ nảy ra ý định "xin con".
Tuổi xuân của những người phụ nữ như bà Thảnh đã bỏ lại ở nông trường.
Chịu đựng… "xin con"
"Bữa cơm, một mình một mâm, ngồi góc nào cũng lệch, nhiều đêm khơi ngọn đèn dầu tôi chỉ biết tâm sự với cái bóng cho đỡ buồn, đỡ tủi. Thời con gái đi qua chúng tôi đã chôn chặt tuổi thanh xuân với nông trường, để rồi đến khi nông trường giải thể, chúng tôi cũng đã già. Đành cắn răng, nhịn nhục đi "xin" vài đứa con về nuôi cho nhà đỡ hiu quạnh. Mọi người nếu hiểu chắc cũng chẳng cười chúng tôi đâu nhỉ", bà Thảnh nói rồi quay đi lau vội giọt nước mắt đã rơm rớm tự bao giờ.
Ao ước được làm mẹ quá lớn lao, khiến họ bỏ qua mọi rào cản. Các bà không quan tâm người đàn ông đến với mình gia cảnh thế nào, miễn họ đồng ý "cho con".
Mọi tổn thương do những lời bông đùa, đàm tiếu rồi cũng sạn chai đi, những nữ công nhân khuyên nhủ nhau mạnh mẽ kiên cường sống cho chính mình và con cái. Những người đàn bà nén tiếng thở dài, cùng nhau dựng tạm những ngôi nhà xiêu vẹo để tá túc rồi lặng lẽ vượt cạn, nuôi con một mình.
Khi mọi người đang dở câu chuyện, bà Trần Thị Bóng (58 tuổi) cùng bà Nguyễn Thị Dựng (60 tuổi) nghe có khách tới thăm nên cũng kéo nhau tìm sang.
Vừa ngồi xuống thềm nhà, bà Bóng đã góp chuyện: "Tôi chẳng cần đòi hỏi hay ràng buộc gì người đàn ông đến với tôi, chỉ cần người ta cho tôi đứa con. Đổi lại, tôi cũng không làm ảnh hưởng hay phá vỡ gia đình êm ấm của người cho tôi được làm mẹ. Cuối cùng tôi cũng "xin" được 2 đứa con trai. Thằng lớn năm nay đã gần 30, nhưng chả hiểu sao lại bị bệnh tim với động kinh, hễ cứ lên cơn là lại nằm vật ra, giật giật co rúm. Cũng bởi vậy nên đến giờ vẫn chưa lấy được vợ. Còn thằng thứ 2 giờ đang đi bộ đội".
Bà Bóng bỗng bỏ lửng câu nói rồi đưa đôi mắt buồn rầu nhìn ra phía cửa. Không buồn sao được khi chính bà cũng đau ốm quanh năm, bị căn bệnh thoái hóa cột sống hành hạ. Dù đã ở cái tuổi gần lục tuần nhưng bà vẫn phải lăn ra đi làm thuê để lo miếng cơm manh áo, thuốc thang những khi trái gió.
Hoàn cảnh của bà Dựng cũng chẳng khá hơn là mấy khi một mình nuôi lớn 4 người con. Nhắc về những năm tháng đã qua, giọng bà Dựng chùng xuống như một tiếng ru hời: "Thời đó tiền đâu mà xây nhà, mấy mẹ con cứ chui rúc trong cái nhà che tạm bằng mấy tấm tôn thủng lỗ chỗ. Có những đêm gió thổi ầm ào, cả căn nhà rung lên bần bật.
Khổ nhất là những ngày mưa gió, mấy mẹ con nằm ôm nhau trong căn nhà dột nát, tránh kiểu gì cũng bị mưa tạt ướt. Có lúc mấy mẹ con chỉ biết ôm nhau khóc, cầu mong cho trời mau tạnh. Cuộc sống khó khăn thiếu thốn đủ bề nhưng mấy đứa nhỏ cũng hiểu và thương mẹ. Đứa nào cũng ngoan ngoãn, chăm lo làm ăn, học hành chứ không hề phá phách. Với tôi như vậy cũng đủ."
Bà Thảnh tất tả chạy về đón khách trong bộ quần áo thủng lỗ chỗ.
Mơ về ngày mai tươi sáng
Ở cái xóm này cả 6 người phụ nữ đều cùng một quê, cùng chung cảnh ngộ nên họ thương nhau, coi nhau như ruột thịt. Họ giúp nhau, động viên nhau, nương tựa vào nhau để cùng vượt qua những khó khăn để sống và nuôi con.
Bà Thảnh tâm sự: "Chúng tôi vào đây đất khách quê người, không họ hàng thân thích. Đến khi bị nông trường thải ra rồi cũng chẳng biết bấu víu vào đâu. Quay về quê thì tuổi cũng đã già, còn biết làm ăn gì được nữa. Vậy là chị em rủ nhau ở lại, đùm bọc nhau mà sống. Lâu lâu ngồi lại với nhau kể chuyện ngày xưa rồi lại ôm nhau khóc. Bây giờ chúng tôi đã già, chỉ mong sao con cái học hành nên người. Đời chúng tôi quá khổ rồi, mong đời con khá hơn".
Sau bao nhiêu buồn lo, vất vả, hạnh phúc cũng dần viên mãn đối với các bà khi những đứa con đã khôn lớn thành người. Được học hành, dựng vợ gả chồng gần hết. Bà Dựng cười tếu táo: "Ấy thế mà năm nay tớ đã được kết nạp vào Hội Người cao tuổi rồi cơ đấy. Mà cũng đúng tớ có 2 cháu nội, hai cháu ngoại rồi còn gì. Đến giờ cũng coi như viên mãn. Con cháu hiếu thảo nên cũng mát lòng mát dạ".
Đến nay cả 6 ngôi nhà ở "Dốc không chồng" đã được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện và Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Ia Grai hỗ trợ xây tặng nhà "Đại đoàn kết", "Mái ấm tình thương". Những căn nhà không còn ọp ẹp, tồi tàn như trước, cuộc sống của những người mẹ, người bà của cái xóm không chồng ấy cũng đỡ bộn bề phần nào.
Ông Ksor Thuyn, Chủ tịch UBND xã Ia Krái cho biết, cả 6 người phụ nữ ở "Dốc không chồng" đều có hoàn cảnh khó khăn và đều là hộ nghèo. Hằng năm chính quyền xã cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ như cấp phát về giống, phân bón và vật nuôi. Đồng thời chính quyền xã cũng hỗ trợ cho các hộ gia đình này vay vốn để canh tác, chăn nuôi cũng như trang trải cuộc sống.
Chúng tôi chia tay với xóm không chồng khi mặt trời đã ngả màu chiều, những người đàn bà tiễn chân đến tận bên kia con dốc. Bóng của họ đổ xuống bên đường lọm khọm, già nua. Tiếng khóc của một đứa bé trong nóc nhà nào đó vang lên. Khuôn mặt những người bà chợt giãn ra, nhường chỗ cho những nụ cười hiền hậu.