Bệnh đục thủy tinh thể

Ðục thủy tinh thể là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa trên phạm vi toàn cầu và thường xảy ra ở người cao tuổi. Cho đến nay phương pháp điều trị có hiệu quả nhất vẫn là phẫu thuật.

Tổng quát về bệnh

Thủy tinh thể (TTT) là một thấu kính trong suốt ở bên trong con mắt. Nó góp 1/3 vào năng lực hội tụ của nhãn cầu. Công suất hội tụ của TTT được đảm bảo khi nó còn trong suốt, các mặt cong và độ dày còn nằm trong giới hạn sinh lý.

Ngoài ra TTT còn có chức năng lọc tia tử ngoại - tia có hại có trong phổ bức xạ của mặt trời. Khi các phân tử protein không hoà tan bị tích tụ trong TTT cùng với tuổi tác thì tính trong suốt của nó không còn nữa. Các tia sáng khi đi qua vùng bị đục sẽ bị tán xạ mạnh gây giảm thị lực. Đục TTT được coi là đáng kể khi nó làm giảm thị lực xuống còn dưới 3/10.

Nguyên nhân

Bệnh đục TTT (cataract) là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù trên thế giới và ở Việt Nam, thường gặp ở người trên 50 tuổi. Bệnh diễn tiến từ từ, biểu hiện ban đầu là giảm độ kính lão do xuất hiện cận thị chiết xuất; khi ra ánh sáng, mắt sẽ khó chịu nhưng không bị đau nhức. Sau đó, bệnh nặng hơn, mắt như nhìn qua một lớp kính mờ, thấy một điểm đen cố định trên nền mắt sáng; dần dần bệnh nhân không còn nhìn thấy gì.

Trên 80% người mắc bệnh đục TTT là người có độ tuổi trên 50.

Thông thường, bệnh liên quan đến tuổi già (trên 80% người mắc bệnh đục TTT là người có độ tuổi trên 50). Ở người trẻ tuổi, bệnh đục TTT có thể đã hiện diện do bẩm sinh hoặc do chấn thương hay đục TTT thứ phát sau bệnh viêm màng bồ đào, glocom. Các yếu tố nguy cơ phát triển bệnh như tiếp xúc dưới tia cực tím kéo dài, hút thuốc lá, sử dụng các loại thuốc steroid trong thời gian dài và mắc bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, lịch sử gia đình đục TTT.

Dấu hiệu

Đục TTT thường không gây đau, lúc đầu sẽ không thấy bất kỳ dấu hiệu hoặc thay đổi nào trong tầm nhìn cũng như thị lực. Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn nặng hơn thì xuất hiện các biểu hiện của bệnh như:

- Thị lực giảm: Thị lực giảm tỷ lệ thuận với mức độ đục TTT. Trẻ nhỏ thường quờ quạng, nếu lớn hơn có thể đo thị lực để xác định mức độ mờ mắt.

- Lóa mắt: Đục TTT bắt đầu thường gây lóa mắt với ánh sáng, nhìn mờ hơn nơi râm mát và ban đêm, gây khó chịu cho người bệnh. Sự khó chịu này đặc biệt xảy ra ở hình thái đục TTT dưới bao sau.

- Giả cận thị: Mắt bị đục TTT ban đầu có xu hướng cận thị hóa, do vậy, khả năng nhìn gần của mắt tốt lên.

- Lác mắt: Một số trường hợp do đục TTT, mắt đó bị nhược thị và lác.

- Thường xuyên thay đổi kính đeo mắt: Do TTT đục làm thay đổi chiết xuất.

- Nhìn đôi, nhìn thấy nhiều vật cùng một lúc, nhìn như qua sương mù... - tất cả những khó chịu đó được giải thích là do TTT bị đục đã làm tán xạ các tia sáng đi qua nó.

Điều trị

Đục TTT là nguyên nhân thứ hai gây giảm thị lực trên phạm vi toàn cầu, chỉ sau tật khúc xạ. Cho đến nay phương pháp điều trị có hiệu quả duy nhất vẫn là phẫu thuật.

Tại các trung tâm nhãn khoa lớn của nước ta, kỹ thuật mổ PHACO đã trở thành phổ biến với những ưu điểm: vết mổ nhỏ, đặc biệt trong kỹ thuật PHACO lạnh chỉ còn là 2mm thị lực phục hồi nhanh chóng, xuất viện trong ngày, tỷ lệ biến chứng ít.

Chính vì vậy số lượng bệnh nhân (BN) được mổ đục TTT theo phương pháp này ngày càng tăng. Tất nhiên cũng cần nhắc tới một vài yếu tố khác như tuổi thọ tăng và chỉ định mổ đã rộng rãi hơn nhiều so với trước.

Có thể điều trị đục TTT bằng phẫu thuật. (Ảnh minh họa)

Cần chuẩn bị gì khi phẫu thuật?

Chỉ định mổ đục TTT chủ yếu dựa vào mức độ giảm thị lực. Nhưng cần xác định rõ ràng đục thể thủy tinh là nguyên nhân chính gây giảm thị lực chứ không phải là những yếu tố bệnh lý khác. Khi khám bệnh các bác sĩ sẽ phải luôn cân nhắc có sự tương hợp hay không giữa tính chất và mức độ đục thể thuỷ tinh với mức độ giảm thị lực. Tựu trung, thị lực kém hơn 4/10 sẽ được xem xét để chỉ định phẫu thuật. Cũng cần quan tâm đến những yếu tố khác như tuổi của người bệnh, tính chất công việc, điều kiện sống, nhu cầu dùng mắt hàng ngày... để thúc đẩy hay trì hoãn can thiệp phẫu thuật.

Một bệnh nhân trước khi phẫu thuật, ngoài việc được thăm khám về chuyên khoa mắt kỹ càng, còn được truy tìm bệnh toàn thân. Điều này rất cần thiết cho quyết định mổ, tiên lượng thị lực sau mổ, ngăn ngừa các biến chứng cũng như điều trị dự phòng. Tại mắt chúng ta sẽ đi tìm những bệnh có liên quan đến tuổi tác như thoái hóa hoàng điểm người già, bệnh võng mạc tiểu đường, cận thị... Trên toàn thân chúng ta cần phát hiện các bệnh nội khoa như: tăng huyết áp, tiểu đường, các ổ viêm nhiễm. Điều này giải thích tại sao trước khi mổ chúng ta lại cầm trong tay tới 7-8 tờ xét nghiệm.

Đây là loại phẫu thuật can thiệp tối thiểu, gần như không chảy máu, rất ít hoặc không đau đớn. Một số bệnh nhân đặc biệt như bệnh nhân tâm thần hoặc rung giật nhãn cầu có thể cần gây mê để phẫu thuật, còn lại là gây tê tại chỗ, xuất viện trong ngày.

Trước khi mổ, BN nên tắm gội sạch sẽ, cắt tóc, nếu có búi tóc thì nên tháo xuôi búi tóc, ăn nhẹ. Một giờ trước khi vào phòng mổ BN sẽ được nhỏ thuốc giãn đồng tử, thuốc tê, thuốc sát trùng. Nếu có các bệnh mạn tính như tăng huyết áp, tiểu đường, hen suyễn thì nên dùng các thuốc toàn thân như bình thường. Bên cạnh đó vẫn sẽ có các bác sĩ gây mê hồi sức theo dõi cho bạn trong suốt quá trình phẫu thuật.

Sau khi gây tê thì gần như bạn không có cảm giác đau, nhưng khó chịu nhất là cứ phải nhìn thẳng vào ánh đèn khá chói của máy sinh hiển vi. Bạn nên tuân thủ chính xác các yêu cầu của phẫu thuật viên về tư thế đầu, tư thế mắt.

Khâu chuẩn bị khá công phu và căng thẳng như vậy thế nhưng thời gian phẫu thuật trung bình chỉ là 20-30 phút, khá nhanh chóng và êm ái.

Nếu không có các bệnh tại mắt khác thì có khoảng 95% BN thu được thị lực >5/10. Ngoài việc thị lực được cải thiện, còn có những lợi ích đáng kể khác cho BN: cải thiện khả năng nhận biết màu sắc, tăng khả năng đọc và nhìn gần, tăng khả năng lao động, di chuyển và lái xe. Các biến chứng viêm nhiễm thường nhẹ và kiểm soát được. Đáng ngại nhất là biến chứng xuất huyết nội nhãn và viêm nội nhãn, tuy không gặp nhiều. Biến chứng muộn đục bao sau phải giải quyết bằng laser YAG dần dần đã trở thành phổ biến cùng với số lượng đông đảo BN được mổ đặt TTT nhân tạo.

Và chăm sóc sau mổ

Khi phẫu thuật đục TTT, bệnh nhân thường xuất viện sớm nên rất ít có cơ hội được giải thích, chăm sóc tỉ mỉ. Khi về nhà bạn có thể thấy mình có những biến đổi và khó chịu sau đây: mi mắt bị phù, chút xuất huyết trên lòng trắng, mắt cộm và chói, lòng đen có đám phù đục...

Những vấn đề trên, với các thuốc mà bạn đã được bác sĩ kê đơn về sử dụng sẽ biến mất trong vòng 3-5 ngày. Các cảm giác như chảy nước mắt, cộm mắt, đỏ mắt nhẹ có thể tồn tại đến tuần thứ 6 sau phẫu thuật. Những biến chứng nặng tuy rất hiếm gặp như: nghẽn đồng tử, xuất huyết và viêm nội nhãn sẽ gây những triệu chứng cấp tính, rầm rộ khiến bạn phải quay lại bệnh viện ngay đó là: đau nhức, nhìn mờ nhanh, đỏ mắt nhiều, có thấy chớp sáng hoặc nhiều ruồi muỗi bay trước mắt.

Phòng ngừa

Bệnh đục TTT được điều trị bằng phẫu thuật cho kết quả tốt nhưng không phải lúc nào cũng đảm bảo kết quả và đủ điều kiện để mổ. Điều quan trọng là phải biết phòng ngừa đục TTT từ những nguyên nhân gây bệnh đã xác định được.

Cần khám mắt thường xuyên có thể giúp phát hiện đục TTT và các vấn đề về mắt khác ở các giai đoạn sớm nhất. Cần điều trị và kiểm soát tốt bệnh đái tháo đường. Thực hiện đúng chế độ ăn kiêng nếu bị đái tháo đường, kiểm soát tốt đường huyết. Điều trị sớm các bệnh tại mắt như glocom, viêm màng bồ đào.

Ngoài ra, chế độ ăn uống lành mạnh, chế độ ăn giàu chất chống oxy hóa và chức năng gan tốt sẽ có tác dụng giúp phòng ngừa bệnh. Người bị đục TTT có khuynh hướng thiếu vitamin C, đồng, mangan, kẽm... Cần hạn chế các yếu tố nguy cơ khác, ánh sáng tia cực tím từ mặt trời có thể góp phần vào sự phát triển của đục TTT. Đeo kính râm chặn tia cực tím khi đang ở ngoài trời. Không hút thuốc lá, hạn chế bia rượu.

Bệnh mắt khác

Tin hay đừng bỏ lỡ

TIN MỚI TRONG NGÀY