Những câu chuyện cổ tích mượn hình ảnh loài vật để phản ánh cuộc sống, ca ngợi cũng như phê phán đức tính đẹp và xấu của con người.
Chú vẹt tinh khôn
Một người lái buôn Ba Tư (Iran ngày nay) trong một chuyến vượt sang Trung Phi mang về một chú vẹt rất đẹp. Chú vẹt có cái mào đỏ và bộ lông xanh biếc óng ánh. Người lái buôn yêu vẹt lắm. Ông làm cho vẹt một chiếc lồng xinh xắn, sơn son thiếp vàng, treo lồng trong khu vườn nhiều hoa lá châu Phi cho vẹt đỡ buồn. Vẹt nói rất sõi.
Sắp sửa đi cất chuyến hàng mới, ông ta nói với vẹt:
– Này vẹt ơi, ta sắp sửa tới quê hương Trung Phi của mi, mi có nhắn điều gì với bà con bạn hữu mi không?
Chú vẹt liền nói:
– Ông chủ làm ơn nói với đồng bào của tôi là ở đây dù đầy đủ thức ăn tôi vẫn gầy mòn vì nhớ rừng quê, nhớ bạn bè, dòng họ. Ông chủ bảo bạn bè tôi hãy chỉ giúp tôi cách nào để trở về quê hương.
Nghe vẹt nói, người lái buôn thầm nghĩ: “Thảo nào người ta nói ngu như von vẹt! Đừng hòng ta thuật lại cái mưu kế chúng nó bày ra cho mi! Ta đâu có khờ dại đến thế!”
Ảnh minh họa.
Tới Trung Phi, trở lại khu rừng trước kia ông đã tới, ông thấy một lũ vẹt đậu trên cây cao, trong đó có con vẹt mào đỏ giống lũ vẹt của ông, ông bèn nhắc lại những lời vẹt nhà nói cho chúng nghe. Người lái buôn rất ngạc nhiên thấy con vẹt mào đỏ chăm chú nghe ông xong thì trở nên buồn rười rượi, xù lông xù cánh, gục đầu, rồi rơi xuống bụi rậm.
Vừa về thuyền, ông vừa ngẫm nghĩ thấy tội nghiệp cho con vật: “Chắc là nó thương con vẹt của ta lắm nên mới rầu rĩ chết đi như thế”.
Về đến nhà, người lái buôn kể lại chuyện trên cho chú vẹt của ông nghe. Nghe xong, chú vẹt ủ rũ nhắm mắt và một lúc sau thì rơi xuống đáy lồng chết. Người lái buôn buồn rầu triết lí:
– Hóa ra giống vẹt mà có tình có nghĩa hơn loài người. Nghe tin bạn chết vì thương nó, nó cũng đâu khổ và chết theo.
Ông mở cửa lồng mang vẹt ra, để trên bàn tay ngắm nghía. Đột nhiên, chú vẹt bay vù lên một cây cao, đứng nhìn ông và nói:
– Cám ơn ông chủ đã thuật lại cách bạn tôi đã chỉ cho tôi để được tự do, giờ tôi trở về rừng núi quê tôi đây. Xin chào ông nhé!
Thế rồi vẹt cất cánh, nhằm hướng Tây Nam bay thẳng.
Người lái buôn tần ngần nghĩ bụng: “Hóa ra cái lũ vẹt này cũng đáo để thật!”.
Chú dế nhỏ và con ngựa già mù
Ngày xưa, có một lần Thượng đế bảo một vị thiên thần nhỏ, đứng hầu bên cạnh người:
– Này, Thiên thần nhỏ, hãy đeo chiếc trông xinh xắn của ngươi xuống ngay dưới mặt đất, đánh trống báo hiệu lên rồi sau đó truyền cho tất thảy mọi sinh vật: loài bay lượn trên không, loài lặn dưới nước và loài chạy nhảy trên mặt đất, hãy lên đây gặp ta, ta sẽ ban cho mỗi con một món quà. Đi đi!
Vị thiên thần dạo một hồi trống hiệu rồi reo lên cho khắp bốn phương đều nghe rõ:
– Hãy đến mau! Tất cả các sinh vật hãy chạy đến cho mau! Thượng đế sẽ ban phúc lành cho tất cả!
Từ khắp các nẻo trên thế gian, hàng triệu sinh vật lớn nhỏ ùn ùn kéo đến, tất cả những con vật nhỏ bé đi đứng hoặc bay lượn, các loài sâu bọ, các loài cá và chim chóc. Lần lượt từng con một, chúng trèo lên chiếc thang đưa chúng lên cõi nhà Trời. Cái thang uấn cong vì quá nặng.
Chúng kéo cả bầy đến gặp Thượng đế, hôn tay Người và mỗi con vật nhỏ bé, sâu bọ, cá và chim chóc nối tiếp nhau trèo thang. Chúng trở xuống sung sướng và vui cười với món quà trên tay.
Đom đóm nhận được một ngôi sao nhỏ xanh biếc. Chẫu chàng xuống đem theo chiếc đàn mandolin, Thượng đế cho tôm một chiếc kéo và dặn: “Khi nào trở nên thợ may thì phải nhớ cắt ba lần mẫu thử trước khi cắt vào vải đấy nhá!”. Nhện thì được đủ sợi để mà dệt suốt đời. Kiến trở xuống với một cái túi đầy căng lòng hăng say làm việc.
Ảnh minh họa.
Thượng đế cho gà trống một chiếc đồng hồ báo thức, nhưng gà ta lúc bay xuống thang, qua sông đã đánh rơi mất món quà, từ đó, mỗi lần bay lên đỉnh đống rơm trong sân trại để lên tiếng báo giờ, chú ta chẳng hề hiểu được là mình thông báo cái gì cả.
Thỏ được nhận hai đôi cẳng mà Thượng đế đã định để dành cho gió, còn chú vẹt thì lại được một cái tiếng kêu có thể nhại lại bất cứ thứ tiếng nào khác.
Cuối cùng, khi tất thảy mọi sinh vật đều đã nhận quà và trở về hết, con ngựa mù mới dờ dẫm lại bên chiếc thang. Con ngựa ấy đã phục vụ trong chiến tranh. Chủ nó bỏ mình vì nước và con ngựa khốn khổ đã quá thương khóc chủ nó đến nỗi mù cả hai mắt.
Nhưng vì nó chẳng nhìn thấy gì, nó bước hẫng cẳng và ngã bị sai khớp ở chân trái. Nó ngửng đầu buồn bã nhìn lên trời, nhưng chẳng thấy gì. Đúng lúc ấy, một con dế hấp tấp ở đâu nhảy bộp lên đầu con ngựa già và hỏi:
– Anh không có mắt à?
– Không, tôi không còn nhìn thấy gì nữa!
– Anh cũng muốn nhận được một chút quà ư?
– Phải!
– Quà gì?
– Đôi mắt!
Dế suy nghĩ, đưa một cẳng lên gãi gãi đầu, rồi nói:
– Chờ đây một lát nhé!
Dế vội nhảy về hướng vầng trăng sáng và gọi to:
– Thánh Petros, hãy khoan, đừng vội đóng cửa thiên đường!
Vừa đúng lúc ông thánh giữ cổng tra chìa khóa vào ổ và sắp quay chìa để khóa. Nghe tiếng chú dế gọi, ông thánh lại hé cổng ra cho chú dế vào.
Dế đi thẳng đến chỗ Thượng đế ngồi và tâu trình với cái giọng lanh lảnh của chú:
– Kính tâu đức Thượng đế vô cùng nhân hậu, kia, dưới trần gian, có một con ngựa già đang trông ngóng anh ta mù và không treo lên thang trời được.
– Thế ta nên cho nó cái gì nào?
– Ôi! Thượng đế nhân hậu, anh ta mong có được đôi mắt sáng.
– Được, con hãy theo ta ra vườn – Thượng đế bảo dế.
Thượng đế bước nhẹ nhàng trên thảm cỏ xanh và dày.
Chú dế nhảy nhót theo sau. Tới dòng suối nhỏ bên một gốc cây to, Thượng đế bảo:
– Con hãy vục lấy một chút nước suối này vào trong hũm cẳng [4] và khi trở xuống hạ giới [5] thì con hãy nhỏ vào mắt cho con ngựa mù!
Chú dế bé bỏng cúi xuống vục lấy một chút nước suối và khi chú sắp sửa đi, Thượng đế nhìn chú âu yếm và hỏi:
– Này dế, thế ta có thể tặng cho con cái gì đây?
– Ôi, Thượng đế nhân hậu! Chẳng cái gì cả – Chú trả lời – Con đã có đôi cánh!
– Đúng vậy! – Thượng đế nói – Nhưng con có một tâm hồn giàu lòng nhân ái, ta sẽ tặng con món quà quý nhất!
Thượng đế quay trở vào cung, lấy ra một chiếc vĩ cầm [6] không có dây và đưa cho dế.
Dế sung sướng quá đến nỗi, do phấn khởi, chú nhảy thẳng một cái xuống mặt đất, không cần đến thang. Chú lại ngay bên con ngựa già, nhỏ nước suối trời vào đôi mắt mù của nó và con ngựa sáng mắt nhìn thấy mọi cảnh vật. Con ngựa già mừng rỡ đến nối cánh đồng cỏ như trở nên quá chật hẹp cho niềm vui sướng của nó.
Ngựa già hỏi dế:
– Thế Thượng đế cho anh cái gì?
– Thượng đế cho tôi món quà quý nhất!
– Cái gì vậy?
– Một chiếc vĩ cầm. Nhưng chiếc đàn không có dây!
– Dây đàn ư? Anh cứ dứt ở đuôi tôi ấy!
Chú dễ bé bỏng dứt một sơi lông bạc trắng ở đuôi ngựa già căng lên đàn và búng thành âm thanh thánh thót. Thế rồi, lòng tràn ngập sung sướng, chú dế vội đi một vòng khắp mặt đất để trong những buổi đêm thanh khiết đem niềm vui cho trái tim mọi người, cây cỏ và tất thảy mọi sinh vật bé bỏng nhỏ nhoi.
Quạ và Chim Sẻ
Ngày xưa, có một chú Chim Sẻ làm bạn với một con Quạ. Một hôm, lúc hai con đi kiếm mồi. Quạ nhìn thấy một ít quả ớt chín đỏ phơi trên chiếu. Quạ bảo Sẻ:
– Bạn hãy nhìn những quả ớt kia! Ta thử thi nhau xem ai ăn được nhiều.
– Được! – Sẻ đáp lại.
– Vậy nếu ai thắng, người đó sẽ được ăn thịt kẻ thua – Quạ nói.
Sẻ vui vẻ nhận lời, vì nó nghĩ Quạ chỉ nói đùa. Bạn bè ai lại ăn thịt nhau! Sẻ ta ăn ớt và đếm một cách thật thà, còn Quạ thì gian lận. Nó ăn một quả lại giấu ba quả ở dưới chiếu, không để Sẻ trông thấy.
– Thế là tôi thắng nhé! – Quạ nói – Giờ thì tôi ăn thịt anh!
Bây giờ Sẻ mới hiểu ra là Quạ không đua. Nó liền bảo Quạ.
– Thôi được, tôi giữ lời hứa. Nhưng trước khi ăn thịt tôi, anh phải rửa sạch cái mỏ của anh đi, vì người ta ai cũng biết anh là giống chim bẩn thỉu, ăn toàn những thứ bẩn.
Quạ liền ra bờ sông, cất tiếng kêu to:
– Sông ơi! Sông ơi!
Cho ta ít nước
Để ta rửa mỏ
Để ta tắm sạch
Đặng ăn thịt Sẻ!
Sông đáp lại!
– Anh muốn ít nước à? Được, nhưng ai cũng bảo anh xưa nay ăn toàn những thứ bẩn thỉu. Nếu anh muốn rửa mỏ trong nước của tôi, anh phải kiếm một cái lọ để đựng nước, sau đấu anh muốn lấy bao nhiêu cũng được.
Ảnh minh họa.
Quạ liền đi nhanh đến nahf bác thợ gốm ở trong làng và kêu to:
– Bác Gốm!
Bác Gốm!
Làm tôi cái lọ
Để đựng ít nước
Để rửa cái mỏ
Để tôi tắm sạch
Đặng ăn thịt Sẻ.
Bác thợ gốm đáp:
– Ngươi muốn có một cái lọ à? Được, nhưng hiện nay ta chưa có đất sét. Ngươi hãy đi kiếm một ít đất sét mang về đây ta sẽ nặn lọ cho.
Quạ ra ngay cánh đồng, lấy mỏ đào đất. Đất bảo Quạ:
– Cả thế giới này đều biết ngươi xưa nay chỉ ăn toàn những thứ bẩn thỉu. Nếu ngươi không dùng xẻng thì ta không cho ngươi đào đất đâu.
Quạ liền tìm bác thợ rèn trong làng, bác này đang sửa một cái bánh xe. Quạ bảo bác:
– Bác Rèn!
Bác Rèn!
Làm tôi cái xẻng
Để đào ít đất
Để nặn cái lọ
Để múc ít nước
Để rửa cái mỏ
Để tôi tắm sạch
Đặng ăn thịt Sẻ!
Bác thợ rèn trả lời:
– Ngươi muốn có cái xẻng à? Được thôi, nhưng ngươi thấy đấy, lò của ta chưa có lửa. Ngươi muốn ta làm xẻng cho thì ngươi phải mang đến một ít lửa.
Quạ đi ngay đến nhà một người nông dân ở gần đấy. Vợ bác nông dân đang thổi cơm trong sân. Quạ kêu to:
– Bà Nông Dân ơi!Cho tôi ít lửaĐể rèn cái xẻngĐể đào ít đấtĐể nặn cái lọĐể múc ít nướcĐể rửa cái mỏĐể tôi tắm sạchĐặng ăn thịt Sẻ.
Vợ bác nông dân nói:
– Ngươi muốn xin lửa à! Được, nhưng ngươi mang lửa đi bằng cách nào?
– Bà cứ đặt nó lên lưng tôi. – Quạ nói.
Vợ bác nông dân đặt lửa lên lưng Quạ, lập tức lông Quạ bén lửa bốc cháy. Con Quạ tham lam, gian giảo bị cháy thành than. Và người bạn Chim Sẻ thật thà sống đến già.
Cú và Voi
Xưa kia, trong một khu rừng rậm có một con Cú và một con Voi kết làm đôi bạn thân. Đã nhiều năm chúng cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Gặp khi hoạn nạn bao giờ chúng cũng tìm cách giúp đỡ lẫn nhau.
Một hôm, Voi ta đói lòng bèn đi tìm thức ăn. Nó lang thang đi sâu, đi sâu mãi vào rừng. Bỗng nhiên nó gặp một lũ quỷ đang tụ tập.
Vua quỷ vừa mới nằm mơ thấy mình ăn thịt Voi, vì thế lũ quỷ thích lắm khi thấy một con Voi thực sự đứng trước mặt. Chúng một mực đòi giấc mơ của vua quỷ thành sự thật. Chúng túm lấy Voi định đem giết. Mặc cho Voi ra sức phản đối, lũ quỷ chẳng thèm để ý. Cuối cùng, Voi nói:
– Thôi, xin các anh hãy cho tôi về gặp người bạn cũ thân thiết nhất của tôi một lần cuối cùng.
Lũ quỷ đồng ý nếu như Voi hứa chắc chắn sẽ quay trở lại ngay để nộp mạng.
Thế rồi, Voi quay về gặp bạn Cú của mình. Dọc đường gặp ai Voi cũng hỏi:
– Có đúng thực là nếu người ta nằm mơ thấy mình ăn gì thì khi tỉnh dậy nhất thiết phải ăn thứ đó không?
Cuối cùng, Voi về tới cái cây là nơi bạn Cú ở. Voi nhìn thấy bạn mình đang ung dung đậu trên một cành cây, Voi thở dài rồi kể cho Cú nghe câu chuyện vừa xảy ra và nói:
– Xinh vĩnh biệt người bạn chí thân của tôi. Bây giờ tôi phải đi nộp mạng cho vua quỷ ăn thịt.
– Không! Không! – Cú nói – Anh không được tuyệt vọng. Hãy để tôi cùng đi, tôi sẽ nghĩ cách cứu anh.
Sau đó hai người bạn lên đường đến nơi quỷ ở. Có bạn Cú cùng đi, Voi cũng phần nào vững dạ hơn. Cú ta đậu trên đầu Voi, vì nếu như dùng hai cánh để bay thì chắc đã đến trước Voi từ rất lâu rồi.
Ảnh minh họa.
Khi cả hai cùng đến nơi lũ quỷ tụ tập, Cú làm như vẻ vừa thức dậy sau một giấc ngủ. Nó rũ lông, rồi mở to mắt nhìn lũ quỷ và nói:
– Ta vừa mơ lấy hoàng hậu [4] quỷ làm vợ. Chắc ta phải lấy nàng thôi. Vậy không biết giờ nàng ở đâu?
– Ngươi không thể lấy hoàng hậu của chúng ta chỉ vì một giấc mơ ngu xuẩn nào đó của ngươi được!
Cú liền nói ngay:
– Nếu như ta không thể biến được giấc mơ của mình thành sự thực, thì lí do gì vua của các anh cứ nhất định đòi ăn thịt Voi chỉ vì ông ta trong giấc mơ đã thấy mình được ăn thịt Voi? Nếu vua của các anh cứ nhất định đòi ăn thịt bạn của ta thì ta sẽ nhất định phải đòi lấy cho được hoàng hậu của các anh!
Lũ quỷ đờ người ra. Chúng không biết nói gì hơn, đành để Cú và Voi trở về.
Cú đã cứu sống bạn Voi của mình như vậy đấy.
Bài học hay từ những câu chuyện cổ tích
Những câu chuyện cổ tích khuyên các bé phải biết gìn giữ và trân quý tình bạn của mình, còn những kẻ bất nghĩa sẽ bị trừng phạt.