Chúng ta hãy thử nhìn lại cách chống dịch bệnh của các cụ từ xa xưa ở Việt Nam.
Chống dịch bằng... đẻ
Xa xưa, mỗi khi đất nước bị lụt lội, vỡ đê, dịch bệnh, hạn hán... hoặc có những chuyện bất thường như: Nhật thực, nguyệt thực... đều cho rằng do vua ăn ở trái đạo nên trời ra tay để thức tỉnh. Vì vậy vua sẽ phải ăn chay, sám hối, sửa đạo thay nết, phóng thích tù nhân, phát chẩn cho người nghèo để chuộc lỗi.
Vì thế trong “Đại Việt sử ký toàn thư” nhiều đoạn chép: “Năm A, tháng B, ngày C đại hạn, vua ra lệnh ân xá cho tù nhân...”, “Năm D, tháng E ngày F, dịch bệnh, vua ăn chay niệm Phật” hay “Năm G, tháng H ngày K, đê vỡ, vua sai phát chẩn cho dân”... Ngày nay, quan niệm tâm linh bị cho là hoang đường nhưng xưa lại nó cũng có công dụng kiềm chế phần nào các đấng quân vương không còn lương tâm.
Nói chung các bậc quân vương đều hiểu rằng có dân mới có vua nên ngoài sám hối, vua cũng có những việc làm rất cụ thể, sách “Đại Nam thực lục chính biên” chép: “Vua lấy bạch đậu khấu trong kho và phương thuốc chữa dịch sai người ban cấp”. Tuy nhiên chế biến “bạch đậu khấu” thế nào, “phương thuốc chữa dịch” ra sao lại không thấy sách chép.
Xưa dịch bệnh làm chết vài trăm nghìn người là con số quá lớn vì dân số Việt Nam không nhiều như ngày nay. Thời điểm Minh Mạng mới lên ngôi, trận dịch tả tháng 7-1820 làm chết 206.835 trong khi số dân thời kỳ đó khoảng 10 triệu, tức là mất 2% dân số. Để duy trì nòi giống và bù lấp vào số người chết do thiên tai, đặc biệt là dịch bệnh, các triều vua cho con dân lấy vợ cưới chồng từ rất sớm, ca dao có câu “Bồng bồng cõng chồng đi chơi/Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng”. Việc sinh đẻ cũng thoải mái, “Lấy chồng từ thuở 13/ Đến năm 18 thiếp đà 5 con” và vua cũng cho phép đàn ông có thể lấy nhiều vợ. Lễ hội phồn thực tại miếu Trò, xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, Phú Thọ vào ngày 11-12 tháng Giêng hàng năm gọi nôm là “Linh tinh tình phộc”, là một trong những lễ hội phồn thực cổ xưa nhất Việt Nam, với mục đích để dân chúng trong vùng sinh đẻ nhiều.
Để duy trì nòi giống và bù lấp vào số người chết do thiên tai, đặc biệt là dịch bệnh, các triều vua cho con dân lấy vợ cưới chồng từ rất sớm. Ảnh minh họa
Dịch bệnh chẳng chừa một ai. Đầu năm 1801, hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh được Nguyễn Ánh (lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long) chọn nối nghiệp nhưng sau đó, ông qua đời vì đậu mùa vào ngày 20/3/1801, dù được chữa trị bằng các bài thuốc Nam, thuốc Bắc khiến Gia Long lo sợ. Từ đó vua Gia Long bắt đầu tin vào y học phương Tây và cho đến lúc chết bên cạnh ông luôn có một bác sĩ người Pháp.
Có thể nói từ đời vua Gia Long, y học phương Tây chính thức đặt chân vào Việt Nam. Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi thay cha là Gia Long cũng lo sợ dịch bệnh đã cho phép lập một “trung tâm” chữa bệnh đậu mùa ngay trong hoàng thành và 10 ngự y đã được các bác sĩ người Pháp đào tạo chữa bệnh kiểu phương Tây. Tuy nhiên cháu nội của Minh Mạng sau này là vua Tự Đức (con trai của vua Thiệu Trị) bị dính đậu mùa, dù không chết song mặt Tự Đức rỗ như tổ ong bầu.
Áp dụng các biện pháp phòng chống cứng rắn
Năm 1888, dịch tả xảy ra tại nhiều khu phố ở Hà Nội làm dân chúng vô cùng hoang mang, báo Tương lai Bắc Kỳ mô tả “không khí lo sợ bao trùm thành phố, nhà nào cũng đóng cửa kín mít”. Thời điểm này, Hà Nội đã là thành phố nhượng địa, sống theo luật Pháp quốc nên chính quyền làm nhiều việc để dập dịch. Đầu tiên, họ mua rất nhiều giấy bản phát miễn phí cho dân chúng bị bệnh, bắt phải dùng khi đi vệ sinh rồi bắt đốt để hạn chế lây lan. Chính quyền lập các chốt có cảnh sát gác ngày đêm, không cho người ngoài vào, bên trong ra. Hàng ngày họ cung cấp cơm nắm, muối vừng và nước vối nóng.
Cùng với thuốc Tây khi đó đã bào chế được, chính quyền cũng huy động dân chúng các vùng không bị dịch hái búp ổi, một loại thuốc nam không mất tiền nhưng tác dụng khá tốt phát cho người bệnh. Theo yêu cầu của các thầy thuốc Hoa kiều, thậm chí chính quyền cũng đồng ý để các tiệm hút thuốc phiện (giai đoạn này chính quyền Pháp cho hút thuốc phiện công khai ở Hà Nội) phát cho người bệnh những viên thuốc phiện nhỏ như hạt đậu xanh...
Năm 1902, dân chúng Hà Nội lại bị một phen hoảng loạn vì thành phố xuất hiện dịch hạch, người ta đồn đại là do các phu người Hoa sang làm đường sắt mang theo. Để chống dịch, chính quyền đưa tất cả số lao động bị bệnh vào cách ly trong Văn Miếu. Với những nhà có người chết, họ ra lệnh cho cảnh sát phóng hỏa thiêu rụi căn nhà. Vì sống theo luật của Pháp nhiều gia đình bị đốt nhà đã làm đơn kiện tòa Đốc lý nhưng bị bác đơn và sau khi dập tắt dịch, họ đã đền bù tiền để làm lại nhà... Nhờ áp dụng các biện pháp cứng rắn nên dịch đã không lan rộng và được dập tắt. Sang năm 1903, Hà Nội lại bị dịch hạch, chính quyền cho phun thuốc khử trùng, tiêm vaccine cho dân và đốt những căn nhà có người chết...
Khi viết cuốn “Me Tư Hồng”, tôi xuống Hà Nam, Nam Định và Thái Bình tìm kiếm những câu chuyện của nhân vật Trần Thị Lan (tên thật của cô Tư Hồng). Dù thời gian Trần Thị Lan sống ở làng cho đến khi tôi đến đã 130 năm nhưng rất may, người nông dân vốn “nhớ lâu, thù dai” vẫn còn những chuyện lẻ sót lại trong kho ký ức. Và ấn tượng nhất là chuyện về người chồng đầu tiên của Trần Thị Lan. Anh này quê Thái Bình, kẻ sống sót duy nhất trong trận dịch tả kinh hoàng. Khi dịch tả xảy ra ở một ngôi làng ven sông, viên tri huyện đã cho áp dụng quy tắc 2 vòng tròn. Người bị bệnh thì ở nguyên trong làng, ông gọi đó là vòng tròn thứ nhất, người chưa dính ông đưa sang vòng tròn thứ 2 cách vòng tròn thứ nhất khá xa. Cấm người ở vòng tròn thứ nhất sang vòng tròn thứ 2 và ngược lại. Chỉ những người được phép mang thuốc, thức ăn, nước uống mới được ra vào.
Khi biết không thể cứu sống được những người bệnh ở vòng tròn thứ nhất, viên tri huyện đã đề nghị tổng đốc Thái Bình cho phóng hỏa đốt làng để tránh dịch lây lan rộng và được đồng ý. Mùi thịt người cháy khét lẹt lan ra khắp vùng. Ở vòng thứ 2 có một thanh niên, nhìn ngọn lửa sáng rực, anh ta biết, ông bà, cha mẹ, họ hàng đã chết cả, sợ tiệt tộc, đêm đó anh ta trốn qua mấy vòng canh gác, bơi qua sông sang Nam Định. May mắn anh ta không bị bệnh. Sau đó anh mở quán bán cháo thịt bò và lấy Trần Thị Lan.