Chính bà Căn Y cũng không thể biết trong số 10 người con mà mình sinh ra ai là con của ông Tuol và ai là con của ông Tua.
Ghé xã Hồng Kim (A Lưới, Thừa Thiên – Huế) hỏi thăm ông Hồ Văn Tuol (SN 1943) ai cũng hay biết. Từ người già đến trẻ nhỏ đều có thể kể vanh vách về hoàn cảnh của gia đình ông. “Chúng tôi – người đồng bào Pa Cô ở xứ này đều biết rõ về gia đình ông Tuol bởi rất hi hữu và đặc biệt. Ông ấy với ông Tua (SN 1947) – em trai ruột cưới chung một người vợ nhưng sống hạnh phúc, chan hoà lắm.
Hiện gia đình hai chồng một vợ sống ở trên rừng, cùng chăn nuôi bò gà. Còn các con cháu của họ sống ngay cạnh nhà tôi, cứ sát sàn sạt nhau ấy. Nhiều lúc tôi thấy ngưỡng mộ cách sống, cách dạy con của họ lắm”, một người hàng xóm của gia đình ông Tuol cho hay.
Người này còn tiết lộ, hai ông một bà không hề biết rõ đâu là con của ông Tuol, đâu là con của ông Tua. Tất cả đều gọi ông Tuol là bố, còn ông Tua là chú và dành sự kính nể, hiếu thảo đến cả hai.
Căn nhà của gia đình ông Tuol ở xã Hồng Kim.
Sau đó họ hướng cánh tay chỉ về phía bìa rừng – nơi có chiếc lều dựng tạm mà vợ chồng ông Tuol chăn nuôi lợn gà. Chúng tôi quyết định leo lên đó thì tình cờ gặp bà Căn Y – vợ ông Tuol, ông Tua cùng con dâu đang làm cỏ ruộng. Bà cười tươi khi thấy có khách ghé thăm rồi nói: “Về nhà thôi, chứ lên đó đường rừng đi mỏi chân lắm”.
Con dâu của hai ông một bà cho biết bố mẹ chồng sinh được 10 người con: 5 trai – 5 gái, có hơn 2 chục cháu nội ngoại. Đặc biệt ông bà sống rất hoà bình, luôn cùng nhau làm kinh tế và răn dạy con cháu phải sống tốt, biết kính trên nhường dưới.
“Tôi về làm dâu đã nhiều năm nhưng chưa bao giờ thấy bố mẹ to tiếng hoặc cãi vã. Bố mẹ sống hạnh phúc lắm, luôn bảo phải làm gương cho con cháu noi theo. Còn chuyện chúng tôi gọi bố Tuol là bố, còn bố Tua là chú thì không đúng. Chúng tôi gọi là bố lớn và bố nhỏ bởi tất cả đều là máu mủ ruột thịt của hai bố, không có sự phân biệt giữa bố và chú”, người con dâu quả quyết.
Con dâu của hai ông một bà cho biết bố mẹ chồng sinh được 10 người con: 5 trai – 5 gái, có hơn 2 chục cháu nội ngoại.
Thuở con gái, bà Căn Y xinh đẹp nhất vùng, được trai ở các bản bên thầm thương trộm nhớ nhưng chẳng yêu ai. Khi cuộc chiến chống Mỹ lên đỉnh điểm, bà tham gia lực lượng du kích địa phương, vận chuyển lương thực tiếp tế cho bộ đội.
Tháng ngày băng rừng vượt suối làm nhiệm vụ, bà Căn Y đã gặp, yêu thương và nên duyên với bộ đội tên Tuol. Song cả hai chưa kịp cảm nhận hết niềm hạnh phúc của vợ chồng son thì ông phải ra chiến trường. Bà ở nhà mòn mỏi đợi chờ ngày chồng quay về.
Thời điểm đó, ông Tua là giáo viên công tác tại địa phương, ở cùng nhà với chị dâu Căn Y. Ông tự bao giờ đã cảm mến nhan sắc cũng như tính cách dịu dàng của chị dâu. Vì thế ông dù đẹp trai, tài năng, được bao cô gái Pa Cô để ý mà quyết phớt lờ.
“Tôi nghe bố mẹ kể rằng, thuở đó bố lớn đi bộ đội vài năm bặt vô âm tín, không một tin tức gì cả. Mẹ có gửi thư nhưng không thấy sự phản hồi. Do vậy ai trong nhà cũng nghĩ bố lớn đã hi sinh ở chiến trường”, người con dâu của ông Tuol nói.
Bà Căn Y và hai người chồng: ông Tuol (mặc áo vàng), ông Tua (mặc áo xanh).
Trong khi đó, ông Tua nhớ lại: “Trai đơn gái chiếc ở cùng nhà, lại đương tuổi sung sức nên chúng tôi đã đi quá giới hạn chị dâu – em chồng. Vài năm sau, anh trai tôi từ chiến trường trở về biết chuyện không hề giận dữ hay ghen tuông. Ngược lại anh đã vun đắp cho tình yêu của chúng tôi.
Anh đã dẫn tôi đến nhà vợ xin gia đình cho tôi ăn nắm xôi để chính thức trở thành vợ của Căn Y. Ngờ đâu bố mẹ vợ đồng ý cho tôi ăn nắm xôi, công nhận tôi là con rể thứ 2 của họ”.
Theo lời ông Tuol, chuyện tình “tay ba” này thực tế không hề đơn giản như bây giờ kể lại. Bởi chuyện của họ đã làm xôn xao cả vùng, chẳng ai đồng ý vì đây là việc làm vi phạm luân thường đạo lý.
“Khi Căn Y sinh con đầu lòng, già làng đã họp bản để bàn về chuyện của chúng tôi. Nhiều người cho rằng từ lâu người Pa Cô vẫn chấp nhận một người đàn ông lấy hai vợ hoặc một người đàn bà lấy hai chồng nhưng không có chuyện lấy hai anh em ruột khi cả hai đang còn sống.
Một số người lên tiếng bênh vực chúng tôi. Họ nói rằng em trai tôi đã trót yêu vợ tôi, không thể ngăn cách nhưng phải chịu hình phạt thích đáng. Và hình phạt đưa ra là em tôi nộp một con lợn, một con dê để cúng Giàng và thần linh để thần linh không bắt tội, để dân làng được ăn những con vật ấy”, người đàn ông 80 tuổi tâm sự.
Thế là 3 người bắt đầu cuộc sống hôn nhân… độc lạ. Không lâu sau đất nước thống nhất, ông Tuol trở về quê bươn chải mưu sinh với nương rẫy, còn ông Tua tiếp tục sự nghiệp làm thầy giáo.
Còn bà Căn Y tiếp tục sinh ra 9 người con, lớn lên bình thường và khoẻ mạnh. Song chính bà cũng không thể biết trong số 10 người con mà mình sinh ra ai là con của ông Tuol và ai là con của ông Tua. “Trở thành vợ chung của hai ông ấy, chưa bao giờ tôi thấy giữa hai người xảy ra xích mích hay cãi vã. Họ lúc nào cũng cư xử đúng mực, em nghe lời anh, anh thương yêu em”, bà Căn Y chia sẻ.
Chính điều đó đã khiến người dân trong bản cảm thấy ngỡ ngàng. Họ không thể tin rằng hai người đàn ông chung một vợ có thể “bảo ban” nhau hoà thuận đến thế. “Giờ ở cái tuổi gần đất xa trời, tôi mới biết rằng nếu không có tình cảm anh em yêu thương, đùm bọc lẫn nhau thì đại gia đình này tan nát từ lâu rồi. Hơn nữa vợ tôi cũng tinh tế, luôn yêu thương chúng tôi công bằng, không thiên vị ai cả. Vì thế chúng tôi mới sống hạnh phúc đến tận bây giờ”, ông Tuol nói.
Nhắc đến chuyện có hối hận khi “chung vợ” hay không, ông Tuol lẫn ông Tua đều cảm thấy nếu thời gian quay ngược trở lại sẽ không làm vậy. “Đó là một sai lầm nhưng dù sao cũng đã xảy ra, chẳng thể sửa được. Vì thế tôi luôn dạy các con tuyệt đối không được lặp lại quá khứ của bố mẹ”, ông Tua thành thật.
Lãnh đạo xã Hồng Kim cho biết chuyện hai anh em ông Tuol lấy chung một vợ ở địa phương ai cũng biết, là trường hợp đầu tiên và duy nhất của huyện A Lưới. Hơn cả đây là câu chuyện mang tính lịch sử, mọi người nên kể để biết và rút ra bài học chứ không nên phán xét đúng sai.