Cuối thư cô ấy hỏi anh: "Trương, anh có đợi em không?" Trương ước mình có thể nói với cô rằng anh sẽ ở đây, thành phố mà cô cho rằng đầy tổn thương này, chỉ để đợi cô.
Anh vẫn nhận được những bức thư của cô gửi về từ một miền đất xa xôi nào đó. Anh không biết đó là đâu bởi vì cô không bao giờ ghi địa chỉ nơi gửi. Nội dung thư cô thường kể về những vùng đất mà cô đặt chân đến. Đó là một tỉnh miền núi với những đêm sương giá, là cao nguyên nắng gió bạt ngàn, hay đơn giản chỉ là một thành phố xa xôi, hoa lệ mà lạnh lẽo.
Đầu thư cô luôn nói: Trương, em đã đến nơi rồi. Lại là một vùng đất mới!
Trương không đếm được số lần cô đã nói câu này, mỗi lần là một vùng đất mới. Ba năm trời, đúng thế, ba năm trời, những bức thư với lời nói đầu đã thành một thói quen không thể bỏ. Cũng như anh, ba năm trời với niềm mong mỏi về cô không thể nào nguôi ngoai.
Thực ra cô với anh chẳng phải là kiểu mối quan hệ như bao nhiêu người nghĩ: Yêu đương. Anh chỉ là một kẻ xa lạ làm ở quán bar mà cô đã tới uống rượu – nhân ngày thất tình. Đã có rất nhiều người khác đến tìm anh tâm sự, nhưng ở cô lại gợi cho anh một cảm giác khác. Tựa như là xót xa!
Cô nói mình luôn có một ước mơ, đó là đi. Đi đâu cũng được, miễn là chẳng dừng lại một chỗ. Cô nói em sinh ra từ một con chim, chim thì phải bay. Bay mãi đến khi nào chết thì thôi. Chính vì câu nói ấy, cho nên anh đã nghĩ cả cuộc đời này có lẽ chẳng thể gặp lại cô.
…
Tháng tám, anh nhận được một bức thư cô gửi. Người ta hỏi anh về cô, rằng sao thời đại này vẫn còn có người gửi thư? Anh chỉ cười bảo cô ấy là một người đặc biệt.
Cô gửi cho anh một tấm ảnh chụp bên một dòng sông, không rõ là sông gì. Cô mặc một chiếc váy thổ cẩm, cười rạng rỡ như nàng công chúa đầy hoang dại. Da cô đã ngăm đi nhiều, chỉ có đôi mắt là ngày càng sáng rõ.
Cô kể: Em quen một người bạn mới, anh ta muốn em đi cùng anh ta. Nhưng em từ chối.
Trương thở phào nhẹ nhõm sau khi đọc câu cuối ấy. Anh sợ cô bị lừa? Anh lo cô sẽ lại yêu ai đó.
Trương muốn viết thư lại cho cô nhưng không thể. Cô chẳng bao giờ cho anh địa chỉ, bởi vì cô không biết mình sẽ ở đó trong bao lâu. Cô cũng không cho anh số điện thoại. Một lần trong thư cô đã bảo: Em vứt điện thoại đi rồi. Trong ba lô giờ đây chỉ còn máy ảnh, một cuốn sách, một cuốn sổ để viết và một cây bút. Cô ấy không liên lạc với ai ngoài anh. Nhưng sự liên lạc này lại giống như đang tự thoại với chính mình. Vì chỉ có một mình cô ấy nói, còn anh chẳng thể đáp lại.
Thư của cô ngày một nhiều lên, anh buộc chúng lại thành tập và để trong một góc kín. Thi thoảng anh vẫn lôi chúng ra đọc, để hiểu hơn về cô.
Tháng chín, cô ấy không gửi thư kể từ hồi tháng tám. Anh không biết vì sao, nhưng cảm thấy rất lo lắng.
…
Tháng mười, thư lại được gửi đến, lần này là chữ cô đã xấu đi nhiều. Cô ấy giải thích trong thư rằng mình vừa từ một khu rừng ra và giờ thì đang trên tàu trở về thành phố. Vì viết thư trên tàu nên chữ rất xấu. Cô bảo hồi ở trong rừng, cô đã thấy một con chim rất đẹp, nếu có thể cô sẽ đem tấm ảnh chụp nó về thành phố để hỏi một chuyên gia nào đó xem sao.
Cuối thư cô ấy hỏi anh: Trương, anh có đợi em không?
Trương ước mình có thể nói với cô rằng anh sẽ ở đây, thành phố mà cô cho rằng đầy tổn thương này, chỉ để đợi cô. Anh sẽ chở che cho cô, anh sẽ ở bên cô. Anh không tin vào tình yêu vĩnh cửu, nhưng anh nghĩ những người cô đơn phần nào đó vẫn sẽ sưởi ấm được nhau.
Chỉ tiếc rằng anh không nói cho cô biết được. Hy vọng là cô hiểu.
Tháng mười một, anh phải chuyển nhà. Khu trọ mà anh đang sống nằm trong diện quy hoạch, và đã đến lúc nhà nước cần đến nó.
Nếu như vậy thì những bức thư của cô sẽ gửi về đâu và gửi cho ai nữa? Ôi, giá gì có thể gọi điện cho cô ấy. Nhưng nếu gọi điện được, thì ba năm qua đã chẳng có những bức thư như thế này.
Trương chuyển đến một nơi khác cạnh quán bar mà mình làm. Hằng ngày anh vẫn đến thư viện để hỏi xem có thư nào được gửi vào địa chỉ cũ không? Nhưng không.
Tháng mười một, tháng mười hai, tháng một, tháng hai… Bốn tháng đằng đẵng kéo dài ra như cả một thế kỷ. Cô không gửi thư cho anh.
Trương buồn bã nghĩ, nếu như cô ấy không còn gửi thư nữa… thì rất có thể cô đã có một nơi khác để kể về những cuộc hành trình rồi.
Trong một đêm tháng sáu, quán bar chuẩn bị đóng cửa, anh cũng đang lau quầy để kết thúc công việc của mình thì một bàn tay đột nhiên đặt lên trên đó.
Cô ấy xuất hiện như một giấc mơ.
Anh đã nghĩ hẳn mình đang ngủ. Cô ấy xuất hiện đột ngột, không lời chào. Chỉ là cô ấy, tóc dài như gần bốn năm trước, ánh mắt cứng cỏi hơn nhiều, và tại nơi hai người đã quen nhau.
Cô kéo ghế, ngồi xuống một cách điềm đạm. Còn Trương thì nhìn cô như thể cô sẽ tan biến.
Cô mỉm cười, nói: “Anh chuyển nhà à?”
“Ừ, chính quyền thuê máy xúc đến phá nát nó. Anh phải chạy rất mệt đấy.” Anh trả lời.
Cười lườm anh: “Vậy mà em tưởng anh đã đi.”
“Chẳng có nơi nào để đi nữa.”
“Tại sao?”
“Vì em chỉ nghĩ anh ở nơi này thôi.”
Cô lại cười, nhìn anh, nói rất chân thành: “Cảm ơn anh!”
“Sao em không gửi thư nữa? Ngày nào anh cũng đến bưu điện.”
“Em vẫn gửi, nhưng chắc anh đến không đúng lúc. Và chắc có lẽ địa chỉ không còn nên nó đã bị trả lại.”
“Anh thật sự muốn đọc nó.”
“Em sẽ kể lại cho anh nghe.”
“Một ly chứ?”
Cô gật đầu.
Anh vừa rót rượu cho cô vừa nói: “Em đã thay đổi rồi.”
“Gần bốn năm rồi, làm gì có ai ở mãi một chỗ chứ?”
Cô nhận ra một điều không nhất thiết phải đi. Con chim không chân ấy tựa như hành trình cuộc đời, nó chỉ dừng lại khi quả tim này ngừng đập, hơi thở này tan biến. Nếu cô thật sự cô đơn suốt cuộc đời chỉ vì mải mê sống trong những suy nghĩ cô đơn của bản thân, thì tại sao không tìm một ai đó lắng nghe nỗi cô đơn của cô?
Trong khi ở cái nơi nhiều tổn thương này, vẫn có một ai đó chờ cô, bất kể cô đã đi xa tới đâu.