Ngày nay chúng đã trở thành đặc sản xuất hiện trong thực đơn của các nhà hàng, quán nhậu hoặc mâm cơm của gia đình ở thành phố. Chúng được rao bán ở khắp các chợ, cửa hàng thủy hải sản với giá 60.000 - 80.000 đồng/kg, tùy loại.
Cá trê là loại sinh sống ở những vùng nước ngọt, chủ yếu là ở miền Bắc nước ta. Chúng thường được tìm thấy ở các nơi sình, bùn lầy, đồng ruộng hoặc trên sông, ao.
Cá trê có đặc điểm: là loài da trần, bóng; khi cầm thấy trơn, khó cầm, hơi nhớt với thân dài màu đen, xám đen hoặc vàng; đầu dẹt bằng khác biệt với loại khác, đuôi và thân cũng dẹt hai bên; mồm nhô ra phía trước rất rộng; có 4 râu dài, đen, lỗ mũi thường cách xa nhau, mắt nhỏ khó nhìn thấy.
Nước ta hiện đang nuôi và khai thác 5 loại cá trê chính gồm: trê Đen (Clarias focus), trê vàng (Clarias macrocephalus), trê trrắng (Clarias batrachus), trê lai và trê phi (Clarias gariepinus).
- Cá trê đen
Cá trê đen có màu vàng nâu hay xám, bao tử màu trắng xám, có hàng chấm trắng ở cơ quan đường bên. Chúng thường dễ bị nhầm với cá nheo song có thể phân biệt chúng qua số lượng râu: Cá nheo chỉ có 2 râu dài trong khi loại cá trê đen có từ 4-6 râu dài. Chiều dài thông thường vào khoảng 9.6 cm, tối đa có thể đạt tới mức 24.5 cm.
Cá trê đen thường thích sống ở tầng nước sâu hơn những loại cá trê khác và có xu hướng ẩn mình dưới các tán thực vật thủy sinh, là loài cá ăn đêm với thức ăn là loài cá nhỏ, sâu, giáp xác và côn trùng.
- Cá trê trắng
Có màu sậm đồng nhất với nhiều đốm trắng sắp xếp thành các vạch ngang trên thân và rải rác ở mặt dưới của thân. Cá không có gai lưng mà thay vào đó là những tia vây lưng mềm.
Chiều dài tối đa cá trê trắng có thể đạt tới 47cm với khối lượng gần 1.2kg; chiều dài thường gặp rơi vào khoảng 26.3cm. Chúng ưa thích vùng đất trũng thấp như: ruộng lúa, đầm lầy, ao sình bùn.
- Cá trê vàng
Cá trê vàng có cấu tạo thân thon dài, hẹp dần về phía đuôi. Đầu cá to và dẹp đứng, đầu có 4 đôi râu dài đến khoảng gốc vây ngực. Gốc xương chẩm có hình dạng vòng cung.
Cá có vây lưng dài, không có gai cứng, không liền với vây đuôi. Vây bụng nhỏ, vây đuôi tròn. Lưng và đỉnh đầu màu đen, còn bụng vàng nhạt. Hai bên thân có các chấm trắng tạo thành những hàng thẳng đứng. Vây có màu đen, điểm đốm thẫm.
- Cá trê phi
Cá trê phi có phần thân thon và dài. Đầu lớn, xương với mắt nhỏ, có miệng lớn. Cá có 4 cặp râu dài không đều, vây lưng dài. Ngạnh trước có răng cưa gắn và vây đuôi tròn. Màu sắc thay đổi từ vàng cát đến màu xám xen những mảng màu nâu, xanh tối, còn bụng màu trắng.
- Cá trê lai
Phổ biến nhất là loại trê vàng lai - con lai giữa cá trê phi đực và cá trê vàng cái. Cá trê lai khi còn nhỏ có màu giống như cá trê vàng, có vài đốm trắng sáng trên cơ thể nhưng khi lớn lên lại giống cá trê phi có màu loang lổ.
Giống cá này khá phổ biến ở nước ta, do đặc tính của cá trê phi thường có khối lượng thịt cao tuy nhiên sức sống kém, sau khi lai tạo với trê vàng thì có được sức sống và khả năng sinh sản cao hơn.
Xưa cá trê hầu như chỉ xuất hiện ở vùng nông thôn, ít người biết đến. Ngày nay chúng đã trở thành đặc sản xuất hiện trong thực đơn của các nhà hàng, quán nhậu hoặc mâm cơm của gia đình ở thành phố. Chúng được rao bán ở khắp các chợ, cửa hàng thủy hải sản với giá 60.000 - 80.000 đồng/kg, tùy loại.
Từ cá trê có thể chế biến thành nhiều món ngon như:
- Cá trê kho tiêu, kho gừng
Cá trê kho tiêu hoặc kho gừng là những cách nấu cá trê ăn dân dã nhưng rất đậm vị, ngon cơm. Cá trê sẽ được sơ chế loại bỏ nhớt và kho với tiêu, gừng làm át đi mùi tanh của cá và mang đến một hương vị đậm đà của ruộng đồng.
- Cá trê chiên/nướng chấm mắm gừng ớt
Một cách nấu cá trê đơn giản dễ làm nữa với cá trê chính là cá trê được chiên giòn rụm hoặc nướng và chấm với mắm gừng cay cay ngọt ngọt. Thường để làm món này thì bạn nên lựa chọn những con nhỏ, vừa để cá chiên lên được giòn đều và không bị nát thịt.
Theo nghiên cứu thì ở trong thịt cá trê có 16,5% protid, hàm lượng lipid là 11,9%. Ngoài ra còn có cả canxi, sắt, magie, vitamin các loại (B1, B2, PP) cùng 178 calo,… Điều này hỗ trợ về mặt thời gian phục hồi cho người đang ốm khi ăn om/hầm.
Cá trê nuôi thường được cho ăn chế độ giàu protein; bao gồm: Các loại ngũ cốc như đậu nành, ngô và lúa mì. Vitamin, khoáng chất, axit béo, chất chống oxy hóa, và thậm chí cả men vi sinh thường xuyên được thêm vào thức ăn của chúng.
Còn cá trê trong tự nhiên là loài cá hay ăn ở tầng đáy, chúng ăn các loại thực phẩm như tảo, thực vật thủy sinh, trứng cá và đôi khi là những loại cá khác. Trong một con họ cá trê nuôi trưởng thành có hàm lượng axit amin cao nhất, mức axit béo khác nhau. Còn đối với cá trê tự nhiên chứa nhiều axit linoleic nhưng ít axit eicosanoic hơn cá nuôi.