Đó đều là những tấn bi kịch trong lịch sử phong kiến Việt Nam mà khi nhắc lại ai cũng cảm thấy sợ hãi và rùng mình.
Vua Lê Hiển Tông bất lực nhìn Chúa Trịnh giết con trai mình
Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa, liền lập mưu với gia thần là viên quan hoạn Thiều quận công Nguyễn Kim Đĩnh vu cho Thái tử Vỹ thông dâm với cung nữ của Trịnh Doanh rồi đem tội đó tâu lên vua Lê Hiển Tông để bắt thái tử bỏ ngục.
Trước đó, trong giếng Tam Sơn ở mé sau điện bỗng có tiếng nổ như sấm, thái tử dùng thuật số để bói, biết mình sắp gặp nạn, bèn đến nói với nhà vua. Vua Lê Hiển Tông cũng lấy làm lo, vẫn phải luôn luôn cầu nguyện cho con.
Kịp tới ngày bị bắt, thái tử biết tai nạn xảy ra đến nơi liền vào ẩn trong điện ngủ của nhà vua. Thiều quận công dẫn toán lính trước tiên xông thẳng vào Đông cung, định bắt thái tử rồi mới tâu vua, nhưng tìm khắp không thấy. Thiều quận công liền vào điện, kể tội thái tử cho vua nghe, rồi nói rằng: “Tôi nghe nói thái tử náu ở chỗ ngủ của bệ hạ, xin hãy bắt giao cho tôi”.
Vua Lê Hiển Tông ôm mãi lấy thái tử không nỡ rời ra. Thiều quận công cứ quỳ mãi ở giữa sân điện. Thái tử tự biết mình không thể thoát được đã lạy trước mặt nhà vua, sau đó ra cho quân lính trói.
Tranh vẽ vua Lê Hiển Tông bất lực… nhìn Chúa Trịnh giết con trai mình (Ảnh: Họa sĩ Sỹ Hòa).
Sách Đại Việt sử ký tục biên ghi: Thiều quận công Nguyễn Kim Đĩnh đưa thái tử về phủ Chúa. Sâm sai giam, tra kết thành án, bắt vua ký tên vào, bèn phế thái tử làm dân thường. Sau đó, Sâm lại ép nhà vua lấy người con thứ tư là Lê Duy Cận làm hoàng thái tử.
Ít lâu sau, Thiều quận công sai tay chân vu cáo cho hai nho sinh thi đỗ ở làng Đan Luân rằng hai người này âm mưu cướp thái tử ra khỏi ngục để cùng dấy quân làm loạn. Việc này được đưa xuống các quan bàn bạc, thế là thái tử phải ghép vào tội thắt cổ.
“Ngày hành hình, bầu trời tự nhiên tối tăm, giữa ban ngày mà chỉ cách nhau gang tấc cũng không trông rõ. Chừng hơn một khắc mới lại sáng sủa. Già, trẻ, trai, gái trong thiên hạ, không ai là không rơi nước mắt. Họ đều cho rằng đó là việc trái ngược nhất, bi thảm nhất từ xưa đến nay. Hôm ấy nhằm ngày 20 tháng Chạp, năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng (1771)”, Hoàng Lê nhất thống chí nêu rõ.
Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ra tay tàn ác với cháu là vua Trần Phế Đế
Sử sách chép rằng, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông (1321-1394) là một vị hoàng đế có rất nhiều công lao trong việc dựng và giữ nước. Tuy nhiên ông vẫn bị phê phán là người nhu nhược, nối giáo cho giặc. Theo Việt sử giai thoại, lên ngôi được 2 năm, vua Nghệ Tông tin tưởng và gửi gắm cơ nghiệp cho em trai là Duệ Tông rồi lên làm thượng hoàng.
Khi vua Duệ Tông chết, vì qua tiếc thương, thượng hoàng đã lập cháu là Trần Phế Đế lên thay. Tuy nhiên do nghe lời xúi của Hồ Qúy Ly, ông đã ra tay tàn ác với cháu. Cụ thể, trước việc thượng hoàng quá tin dùng người nhà họ Hồ, vua Trần Phế Đế nhận thức rõ mối nguy nên vô cùng lo lắng. Vua liền bàn mưu với thái úy để hại Hồ Qúy Ly nhưng âm mưu nhanh chóng bị bại lộ.
Hồ Qúy Ly đã mật tâu và bóng gió với thượng hoàng: “Cổ lai chỉ có bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ”. Đến 6/12/1388, thượng hoàng quyết định phế bỏ vua Trần Phế Đế. Đây là một trong những cuộc phế lập rất thương tâm. “Tháng 12, ngày mồng 6, sáng sớm, thượng hoàng vờ ngự về An Sinh sai Điện hậu hộ vệ rồi sai Chỉ huy hậu nội nhân gọi vua tới bàn việc nước. Vua chưa kịp ăn, vội đi ngay, chỉ có hai người theo hầu mà thôi. Đến nơi, thượng hoàng bảo vua: Đại vương lại đây! Nói rồi, lập tức cho người đem vua ra giam ở chùa Tư Phúc”, Đại Việt sử ký toàn thư ghi.
Tượng thờ Thượng hoàng Trần Nghệ Tông.
Trong thời điểm đó, Thượng hoàng Nghệ Tông tuyên đọc nội chiếu: Trước kia Duệ Tông đi tuần phương Nam không trở về, dùng con đích để nối ngôi là theo đạo thời xưa. Song quan gia (tức vua Phế Đế - PV) từ khi lên ngôi đến giờ vẫn còn trẻ con lắm, giữ đức không thường, thân mật với bọn tiểu nhân, nghe bọn Lê Á Phu, Lê Dữ Nghị gièm pha vu hãm người công thần làm dao động xã tắc nên giáng xuống là Linh Đức Đại vương. Nhưng nước nhà không thể không có người đứng chủ, ngôi báu không thể bỏ không nên đón Chiêu Định vương vào nối đại thống. Bá cáo trong ngoài để mọi người đều biết”.
Việc truất phế bất ngờ này đã gây nên một làn sóng phản kháng khá mạnh mẽ của quan quân và tướng sĩ. Lúc này nhiều tướng chỉ huy của các phủ quân cũ định đem quân vào cướp lấy vua đem ra. Vua viết hai chữ giải giáp đưa cho các tướng và răn bảo họ không được làm trái ý thượng hoàng nên các tướng mới thôi. Sau đó, thượng hoàng sai người dìu vua xuống phủ Thái Dương thắt cổ cho chết.
Cái chết oan khuất của bố vợ vua Trần Minh Tông
Trần Quốc Chẩn là con thứ của vua Trần Nhân Tông, cháu ngoại của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, em của vua Trần Anh Tông. Không chỉ là người có tài trong việc cầm quân xung trận, ông còn là người nổi tiếng đức độ, được các quan trong triều hết lòng nể phục.
Trần Quốc Chẩn được vua Trần Anh Tông hết mực tin cậy. Năm 1323, khi Trần Minh Tông nối ngôi, con gái của Quốc Chẩn đã được lập làm Hoàng hậu Lệ Thánh. Sau đó ông được phong Nhập nội Quốc phụ thượng tể - chức quan đầu triều, trông coi lục bộ thượng thư. Nhưng quyền cao chức trọng là vậy, song liên quan tới chuyện con gái vẫn mãi chưa sinh hạ hoàng nam cho hoàng thượng mà Quốc phụ thượng tể đã mất mạng thật oan khuất.
Sai lầm lớn nhất trong đời vua Trần Minh Tông là xử oan bố vợ.
Theo đó khi vua Minh Tông ở ngôi 15 năm, Hoàng hậu Lệ Thánh vẫn chưa sinh hạ hoàng nam, nhưng các phi tần khác đều đã có con. Trong triều chính luận bàn nhiều về ngôi vị thái tử. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: Quốc Chẩn tự nhận mình là cố mệnh đại thần lại là bố đẻ của Hoàng hậu Lệ Thánh nên cố chấp đợi khi nào Hoàng hậu sinh con trai trưởng sẽ lập làm thái tử. Văn Hiến hầu muốn đánh đổ hoàng hậu để lập Hoàng tử Vượng bèn lấy 100 lạng vàng đút lót cho gia thần của Quốc Chẩn rồi xúi vu cáo ông âm mưu làm phản.
Nhà vua tin lời tên gia thần kia, bắt Quốc Chẩn giam ở chùa Tư Phúc rồi đem việc ấy hỏi Thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung liền tâu ngay bằng câu thành ngữ: Tróc hổ dị, phóng hổ nan (bắt hổ dễ, thả hổ nguy). Nhà vua bèn cấm tuyệt không cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng hậu phải thấm nước vào áo đưa đến cho uống. Quốc Chẩn uống xong thì mất. Những người bị bắt lây lên đến hơn hai trăm, khi tra hỏi, ai cũng kêu gào là oan.
Vài năm sau, vợ cả, vợ lẽ của tên gia thần ghen nhau, đem việc Văn Hiến hầu đút lót vàng ra tố cáo. Nhà vua giao việc này cho quan giữ việc hình ngục là Lê Duy xét hỏi. Lê Duy là người cương trực, lập tức tra xét ngay. Tên gia thần phải tội lăng trì (tức xẻo thịt từng miếng cho đến chết), nhưng chưa kịp hành hình thì gia nô của Thiệu Vũ (con Quốc Chẩn) đã xẻo thịt Trần Phẫu ăn sống gần hết.
Dường như, trong cuộc đời mình, vua Trần Minh Tông lúc nào cũng bị ám ảnh bởi vụ án oan của cha vợ. Để sửa sai, nhà vua đã cho khôi phục chức tước, sai lập đền thờ Trần Quốc Chẩn.
Nguyên phi Ỷ Lan bức chết Dương Thái hậu cùng 76 thị nữ
Năm 1072, vua Lý Thánh Tông qua đời, Thái tử Càn Đức mới 6 tuổi lên nối ngôi, lấy hiệu là Lý Nhân Tông, còn mẹ của thái tử là Nguyên phi Ỷ Lan được tôn phong Linh Nhân Thái phi. Lúc này Dương Hoàng thái hậu đã dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình.
Ngoài ra, lễ xưa cũng quy định, hễ hoàng đế lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi thì thái hậu được quyền nhiếp chính nhưng Dương Thái hậu lại không phải là mẹ đẻ của vua, điều đó càng khiến Linh Nhân Thái phi căm tức. Năm 1073, một vụ tàn sát bi thảm đã diễn ra, mà nạn nhân chính là Dương Thái hậu cùng 76 thị nữ.
Tượng thờ Nguyên phi Ỷ Lan.
Sách sử ghi: “Linh nhân có tính hay ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay mà bây giờ phú quý thì người khác thưởng, vậy con để mẹ già vào đâu? Vua bèn sai giam Dương Thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương rồi bức phải chết, cho chôn theo lăng của Thánh Tông”.
Nhà sử học Lê Văn Lan nhìn nhận về vụ việc này như sau: “Trong sự nghiệp làm chính trị thì âu đấy cũng là chuyện thường thấy…”. Trước đó, sử thần Ngô Sĩ Liên cũng giải thích: “Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết thái hậu, hãm hại người vô tội đến mức tàn nhẫn như thế? Ấy vì ghen là tính thường có của đàn bà, huống chi lại là mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với Vua. Bấy giờ, Vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích mà không biết là lỗi to…”.