GS.TS Lê Văn Thính, Trưởng khoa Thần kinh, BV Bạch Mai cảnh báo, 90% bệnh nhân đột quỵ bị di chứng và thường hay tái phát lại, lần sau thường nặng hơn lần trước.
Thông tin được các chuyên gia chia sẻ tại hội nghị về đột quỵ hay còn gọi là tai biến mạch máu não được tổ chức tại Hà Nội ngày 29/10 hưởng ứng Ngày Đột quỵ Thế giới.
Đột quỵ (hay còn gọi là tai biến mạch máu não) là một trong các nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn tật; xếp hàng thứ 3 về bệnh gây tử vong, sau ung thư và tim mạch. Theo Giáo sư Stephen Davis, Chủ tịch Tổ chức Đột quỵ Thế giới, mỗi năm trên toàn cầu có 16 triệu ca đột quỵ và khoảng 6 triệu ca tử vong. Hơn 2 thập kỷ qua, gánh nặng của đột quỵ đã tăng 26%. Trên 80% trường hợp đột quỵ xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình như Việt Nam- nơi đột quỵ là một đại dịch.
“Ở các khu vực có thu nhập thấp, người trẻ bị ảnh hưởng bởi đột quỵ theo tỷ lệ nghịch. Ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước châu Á khác, tỷ lệ chảy máu não cao hơn nhiều so với các khu vực ở phương Tây, gây nên tỷ lệ tử vong do đột quỵ cao”, giáo sư Stephen nói.
90% bệnh nhân đột quỵ bị di chứng (Ảnh minh họa)
Ở Việt Nam, do điều kiện kinh tế hạn hẹp nên cơ sở hạ tầng của đa số các bệnh viện còn thiếu thốn. Việc chẩn đoán, xử trí và quản lý bệnh nhân đột quỵ còn gặp nhiều khó khăn. Kiến thức về tai biến mạch máu não của người dân cũng còn hạn chế. Theo GS TS Lê Văn Thính, Trưởng khoa Thần kinh, BV Bạch Mai, có tới 90% bệnh nhân đột quỵ bị di chứng. Bên cạnh đó, bệnh nhân đột quỵ thường hay bị tái phát, lần sau thường nặng hơn lần trước.
Ngày nay, với sự tiến bộ của y học, tỷ lệ tử vong do đột quỵ đã giảm so với trước kia nhưng số người bị tàn tật do đột quỵ lại có xu hướng tăng. Mức độ di chứng phụ thuộc rất nhiều vào thời điểm và cách thức bệnh nhân được phát hiện, chẩn đoán và điều trị.
Với phác đồ điều trị tiên tiến hiện nay, nếu bệnh nhân được chuyển đến bệnh viện trong 3 giờ đầu ngay sau khi bị đột quỵ, và được điều trị thuốc làm tan huyết khối, sự phục hồi sẽ rất khả quan.
Tuy nhiên, theo giáo sư Nguyễn Văn Thông, Nguyên Giám đốc Trung tâm Đột quỵ, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho biết, chỉ có khoảng dưới 1% bệnh nhân bị đột quỵ được điều trị bằng thuốc tiêu sợi huyết đúng cách trước khi đến bệnh viện. Kiến thức về ‘giờ vàng’ (3 đến 4,5 giờ đầu từ khi khởi phát đột quỵ) đối với bệnh nhân bị đột quỵ không phải ai cũng nắm được. Trong đào tạo y khoa cũng không có chuyên khoa về đột quỵ nên phần lớn các bác sĩ ra ngành nghề rồi mới tích lũy kiến thức từ kinh nghiệm công tác. Đối với tuyến cơ sở thì kinh nghiệm cấp cứu, điều trị bệnh nhân đột quỵ cũng còn nhiều bất cập.
Ngay cả các nước tiên tiến nhất như Mỹ, Đức và các nước châu Âu thì tỷ lệ bệnh nhân được sử dụng thuốc tiêu sợi huyết chỉ khoảng trên dưới 5%. Vì thế, chiến lược bảo vệ và kích thích quá trình phục hồi thần kinh sau đột quỵ là cần thiết để giảm di chứng của đột quỵ nặng.
Trong khi đó những hậu quả mà bệnh để lại vô cùng nặng nề. Chưa có nghiên cứu nào ở nước ta về chi phí điều trị, song cứ 1 bệnh nhân đột quỵ ở mức độ tàn tật trung bình nghĩa là mất đi 1 lao động. Nếu di chứng nặng phải phụ thuộc người khác thì gia đình sẽ phải mất thêm 1 người chăm sóc. Như vậy, người bệnh đột quỵ là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên nếu biết phòng và điều trị đúng cách, hậu quả xấu có thể giảm đi nhiều.
Để phòng, chống, xử trí bệnh nhân đột quỵ sao cho hiệu quả, một điều vô cùng quan trọng là nâng cao hiểu biết của người dân về bệnh đột quỵ và bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên y tế trong chẩn đoán, điều trị. Bệnh nhân phải được đưa đến bệnh viện điều trị sớm và điều trị chuẩn.