Cuộc đời hoàng hậu đầu tiên của triều Nguyễn gặp nhiều trắc trở và con cháu bà cũng chịu đắng cay không kém. Họ trầm luân trong cuộc củng cố vương quyền dưới thời Minh Mạng khi kẻ chết, người bị giáng làm thường dân.
Thừa Thiên Cao Hoàng hậu (1762-1814) tên thật Tống Thị Lan là vợ đầu tiên của vua Gia Long – hoàng đế sáng lập triều đại nhà Nguyễn. Bà là một trong 3 vị hoàng hậu của nhà Nguyễn được ban hiệu hoàng hậu khi còn sống.
Thừa Thiên Cao là người phụ nữ đoan chính, xinh đẹp và hiền từ. Khi còn trẻ, bà đã được vua Gia Long đích thân đem lễ vật đến hỏi cưới. Sau đó bà một lòng một dạ lênh đênh theo vua từ lúc gian khó cho đến khi thành công. Nhưng bà số khổ, con cái đều có số chết sớm rồi khi chưa đầy 60 tuổi đã qua đời.
Trọn đời son sắt, chờ đợi vua trở về
Năm 1774, người con gái tên Thị Lan theo cha là Qúy quốc công Tống Khúc Khuông cùng gia đình vào Gia Định. 4 năm sau bà được 18 tuổi đã tiến cung rồi tấn phong làm nguyên phi, rất được Nguyễn Ánh (tức vua Gia Long) sủng ái.
Khi bị nhà Tây Sơn truy đuổi gắt gao, Nguyễn Ánh vừa cầu cứu quân Xiêm La, lại đem con trai 3 tuổi là hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh giao cho giáo sĩ Bá Đa Lộc làm con tin, sang Pháp hòng cầu thêm ngoại viện. Chia ly chẳng biết ngày đoàn tụ, ông đã chặt đôi nén vàng, giữ một nửa còn một nửa đưa cho vợ và nói: "Con chúng ta đi rồi, ta cũng sẽ đi đây, phi hãy phụng dưỡng quốc mẫu (mẹ chồng – PV). Chưa biết sau này gặp nhau ở nơi nào và ở ngày nào, đem vàng này để làm của tin". Khi ấy, bà Thị Lan chỉ biết nuốt nước mắt, nhận trọng trách phụng dưỡng mẹ chồng, chăm sóc gia tộc…
Tranh vẽ Thừa Thiên Cao Hoàng hậu.
Cầu cứu được 50 nghìn viện binh Xiêm La nhưng Nguyễn Ánh vẫn bị nhà Tây Sơn đè bẹp. Bà Thị lan cùng mẹ chồng lánh mình ở đảo Phú Quốc, ngày ngày ngóng đợi tin. Khi Nguyễn Ánh chiếm lại được thành Gia Định liền cho người đón mẹ và vợ về. Từ đây, bà luôn đi theo chồng để chăm lo mọi việc.
Năm 1793, Nguyễn Ánh đề nghị vợ làm mẹ nuôi cho hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm (vua Minh Mạng) dù mẹ đẻ của hoàng tử còn đang khỏe mạnh. Bà bằng lòng với điều kiện chồng phải viết giao ước. Nguyễn Ánh đồng ý, từ đó hoàng tử Đảm về ở hẳn với bà.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lật đổ hoàn toàn nhà Tây Sơn, lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long. Sau đó, bà Thị Lan được lập làm vương hậu và năm 1806 thì được phong làm hoàng hậu. Vua Gia Long có hơn trăm phi tần nhưng chỉ lập duy nhất ngôi hậu cho bà.
Năm 1814, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu qua đời, thọ 53 tuổi. Vua thương tiếc nên khóc lóc rất thảm thiết, để tang bà một năm theo lễ. Bà được hiệp táng ngay sát cạnh mộ vua Gia Long trong khuôn viên Thiên Thọ lăng. Đây là lăng tẩm duy nhất của nhà Nguyễn có mộ vua và hoàng hậu đặt song song nhau.
Chân dung vua Gia Long.
Con cháu có số phận cay đắng giống hoàng hậu
Cuộc đời hoàng hậu đầu tiên của triều Nguyễn gặp nhiều trắc trở và con cháu bà cũng chịu đắng cay không kém. Họ trầm luân trong cuộc củng cố vương quyền dưới thời Minh Mạng khi kẻ chết, người bị giáng làm thường dân.
Con trai đầu của bà là hoàng tử Cảnh khi 3 tuổi đã theo Bá Đa Lộc làm con tin, lênh đênh chân trời góc bể. Sau này, hoàng tử ở ngôi đông cung thái tử chưa được bao lâu thì mắc bệnh đậu mùa rồi mất khi mới 21 tuổi, để lại vợ và hai con trai. Sau này, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn Nguyễn Phúc Mỹ Đường, con trai cả của hoàng tử Cảnh lên nối ngôi mà truyền ngôi cho hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm.
Dưới thời vua Minh Mạng, con dâu, cháu nội của Thừa Thiên Cao hoàng hậu bị giáng cho tội thông dâm với nhau, người bị dìm nước cho đến chết, người phải giao trả ấn tín, bị giáng làm thứ dân, người bị bệnh chết. Sau chắt nội của bà được phong tước để lo việc thờ phụng Anh Duệ hoàng thái tử (tức hoàng tử Cảnh).
Mộ vua Gia Long và Thừa Thiên Cao hoàng hậu tại Thiên Thọ Lăng.
Cuộc trầm luân vẫn chưa kết thúc, năm 1836, triều thần tiếp tục nghị tội, buộc dòng dõi của hoàng tử Cảnh bị giáng làm dân thường mới được tạm yên ổn.
Tiến sĩ sử học Nguyễn Khắc Thuần nhận xét về cuộc đời Thừa Thiên Cao Hoàng hậu như sau: “Việc bắt Nguyễn Ánh làm tờ giao ước khi nhận Nguyễn Phúc Đảm làm con nuôi là biểu hiện sự cẩn trọng của bà đối với Thuận Thiên Cao hoàng hậu, cũng là cẩn trọng đối với chính người chồng. Tiếc là sự cẩn trọng ấy vẫn chưa đủ”.
Cũng theo Tiến sĩ Thuần, thời ấy có hai tội thuộc hàng đại ác không thể tha là bất trung và thất đức. Bất trung thì con trai trưởng của hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện gì, Minh Mạng muốn yên vị trên ngai vàng ắt phải khép Mỹ Đường – con trai hoàng tử Cảnh vào tội thất đức là thông dâm với mẹ.
"Vua Minh Mạng... từ nhỏ đã được Thừa Thiên Cao hoàng hậu nuôi dưỡng, với hoàng tử Cảnh khác chi anh em cùng cha cùng mẹ, thế mà cam tâm giết hại chị dâu, đày đọa các con của anh. Ai đó nói rằng, phàm là hoàng đế thì chẳng thể dung tha dòng trưởng của tộc họ nhà mình. Mức độ đúng sai với ai thì chưa rõ, nhưng với vua Minh Mạng thì chí lý thay", ông đánh giá.