Ho gà là một bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính có thể xảy ra ở mọi đối tượng nhưng phổ biến nhất là ở trẻ em.
Tổng quan
Ho gà là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi vi khuẩn Bordetella pertussis xâm nhập vào đường hô hấp. Bệnh có thể lây qua đường hô hấp thông qua tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết ở họng, niêm mạc mũi của người bệnh khi hắt hơi, ho. Chính vì vậy, bệnh ho gà ở trẻ em rất dễ lây lan khi ở cùng một không gian như trường học, nhà ở...
Gọi là ho gà vì trẻ ho có tiếng rít như tiếng rít của con gà trống khi gần hết tiếng gáy. Vi khuẩn ho gà khi vào đường hô hấp sẽ bám vào các nhung mao của cơ quan này, sinh sản và giải phóng ra độc tố, làm tổn thương nhung mao, gây viêm và hoại tử. Các tổ chức hoại tử giải phóng ra chất histamin gây kích thích cực độ đường hô hấp dẫn đến xuất hiện những cơ ho dữ dội, kéo dài và không tự kiềm chế được. Đây là một loại ho rất đặc trưng của bệnh ho gà, bởi vì sau khi đã điều trị tiêu diệt hết vi khuẩn ho gà bằng kháng sinh đặc trị, triệu chứng ho vẫn còn dai dẳng trong một thời gian dài do chất histamin vẫn tồn tại trong máu của trẻ bị bệnh.
Tiêm phòng vắc-xin là cách tốt nhất để phòng tránh bệnh ho gà ở trẻ em. Lúc trẻ được 2 tháng tuổi là thời điểm thích hợp để tiêm vắc-xin phòng bệnh ho gà.
Nguyên nhân
Tác nhân gây bệnh ho gà là trực khuẩn ho gà có tên Bordetella pertussis. Bệnh lây truyền từ người bệnh sang người lành bằng đường hô hấp qua các giọt chất tiết ra từ miệng có chứa vi khuẩn ho gà. Vi khuẩn ho gà có sức đề kháng rất yếu, bởi vậy sự lây truyền là do tiếp xúc trực tiếp, nhất là những người sinh hoạt trong cùng một không gian khép kín lâu dài như hộ gia đình, trường học.
Biểu hiện
Các triệu chứng của bệnh ho gà thường xuất hiện trong vòng 5-7 ngày sau khi phơi nhiễm, nhưng đôi khi thời kỳ ủ bệnh kéo dài 3 tuần. Bệnh thường khởi phát bởi triệu chứng giống như cảm lạnh, có những cơn ho nhẹ, sau đó trẻ bắt đầu ho nhiều hơn và chảy nước mũi và có thể có sốt nhẹ. Sau 1-2 tuần, bắt đầu ho nhiều hơn. Không giống như cảm lạnh, ho gà có biểu hiện một loạt các cơn ho liên tục trong nhiều tuần. Nếu không được phát hiện sớm và điều trị, bệnh trở nên nặng hơn, gây ho nặng hơn, xuất hiện nhiều đờm dãi. Ho kéo dài dẫn tới việc trẻ nôn ọe, không ăn được, mệt mỏi, chảy nước mắt, nước mũi, kiệt sức. Cơn ho dai dẳng khiến cho trẻ đỏ bừng mặt hay tím tái cả người, vì vậy, có thể bị suy hô hấp, tử vong do nghẹt thở.
Cần lưu ý là ở trẻ sơ sinh, ho rất ít xuất hiện hoặc thậm chí không ho nhưng có thể có hiện tượng ngừng thở tạm thời trong một thời gian ngắn. Vì vậy, ho gà là bệnh nguy hiểm nhất đối với trẻ nhỏ. Một nửa số trẻ nhỏ dưới 1 tuổi bị ho gà phải nhập viện.
Các giai đoạn tiến triển bệnh
Thời kỳ ủ bệnh: kéo dài từ 6-20 ngày (trung bình khoảng 9-10 ngày): thời kỳ này không có triệu chứng.
Giai đoạn viêm long đường hô hấp: kéo dài khoảng 1-2 tuần, các triệu chứng xuất hiện giống như các bệnh viêm đường hô hấp trên bao gồm sốt nhẹ, chảy nước mũi, ho húng hắng, hắt hơi. Cuối giai đoạn này, ho nặng thành cơn.
Giai đoạn khởi phát: kéo dài từ 1-6 tuần, có trường hợp đặc biệt có thể kéo dài trên 10 tuần với biểu hiện cơn ho điển hình như:
Ho: Trẻ ho rũ rượi thành từng cơn, mỗi cơn ho từ 15-20 tiếng ho liên tiếp, càng về sau càng yếu và giảm dần. Ở trẻ, những cơn ho xuất hiện nhiều làm trẻ yếu dần như ngừng thở do thiếu oxy, mặt tím tái, mặt đỏ, tĩnh mạch cổ nổi, chảy nước mắt nước mũi.
Thở rít vào: xuất hiện cuối mỗi cơn ho hoặc xen kẽ sau mỗi tiếng ho, tiếng rít nghe như tiếng gà. Trẻ dưới 6 tháng tuổi có thể không thấy tiếng rít trong cơn ho. Kết thúc cơn ho bằng việc khạc đờm trắng, màu trong, dính. Trong đờm có vi khuẩn ho gà cũng là một nguồn lây bệnh. Trong khoảng 2 tuần đầu của giai đoạn này, tần suất các cơn ho khoảng 15 cơn/ngày, sau đó giảm dần, có thể kéo dài trên 3 tuần nếu không được điều trị. Sau mỗi cơn ho, trẻ mệt, có thể nôn, thở nhanh. Có thể kèm theo các triệu chứng sau: sốt nhẹ, mặt và mí mắt nặng.
Giai đoạn phục hồi: Cơn ho ít dần, bệnh nhân hạ sốt. Tuy nhiên sau đó nhiều tháng, ho có thể tái lại gây viêm phổi.
Biểu hiện bệnh ở người lớn và trẻ vị thành niên thường nhẹ, ít gặp cơn ho điển hình hoặc là không có triệu chứng, thường khỏi sau 7 ngày.
Đối tượng nguy cơ
Mọi lứa tuổi, giới tính, dân tộc, vùng miền địa lý đều có thể bị ho gà nhưng bệnh xảy ra chủ yếu ở người trẻ tuổi, tỷ lệ mắc bệnh cao nhất hiện nay là ở trẻ dưới 5 tuổi. Trẻ dưới 6 tháng tuổi là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh cao nhất. Trẻ em chưa được tiêm chủng vắc-xin ho gà đầy đủ liệu trình là đối tượng có nguy cơ cao nhất bị nhiễm bệnh và thường biểu hiện bệnh lý nặng. Các kháng thể từ mẹ không đủ để bảo vệ trẻ sơ sinh khỏi nhiễm bệnh.
Biến chứng
Bệnh ho gà có thể gây biến chứng nghiêm trọng cho trẻ sơ sinh, trẻ em và có thể có cả người lớn khi chưa có miễn dịch phòng bệnh. Do ho dai dẳng, kéo dài làm cho trẻ bị kiệt sức, nhất là ở trẻ sơ sinh bởi sức đề kháng còn yếu chưa đủ để chống lại bệnh. Bệnh thường gây ra tình trạng thiếu oxy cho cơ thể dẫn tới nhiều biến chứng như suy hô hấp, viêm phổi, thiếu oxy não, viêm não, xuất huyết kết mạc, thậm chí gây tử vong nếu không phát hiện và điều trị sớm, đặc biệt là trẻ sơ sinh.
Thiếu niên và người lớn cũng có thể bị biến chứng do bệnh ho gà. Biến chứng thường ít nghiêm trọng hơn ở những lứa tuổi này, đặc biệt với những người đã được tiêm vắc -xin phòng bệnh ho gà. Biến chứng ở thiếu niên và người lớn thường gây ra bởi bản thân các cơn ho. Viêm phổi là biến chứng cần được lưu ý. Các biến chứng phổ biến nhất của một nghiên cứu khác ở người lớn mắc bệnh ho gà là: Sút cân (33%), mất kiểm soát bàng quang (28%), bất tỉnh (6%), gẫy xương sườn do ho nặng (4%)...
Điều trị
Với trẻ lớn và thể nhẹ thì có thể cho điều trị ngoại trú bằng các thuốc an thần, giảm ho, long đàm; với các thuốc kháng histamine không có hiệu quả. Đối với trẻ nhỏ, mẹ phải cho ăn lỏng và bú nhiều lần trong ngày, từng ít một, khi trẻ ho phải bồng ngồi dậy và nghiêng đầu về một bên, bà mẹ phải biết cách móc đờm giải, biết cách hô hấp nhân tạo miệng - miệng khi trẻ ngưng thở, tím tái trong bối cảnh chưa cấp cứu kịp, cần tránh khói bếp, nhất là khói thuốc lá, các trường hợp nặng và trẻ quá nhỏ thì phải đưa vào bệnh viện để theo dõi tại phòng cấp cứu đặc biệt.
Về điều trị thuốc, thường dùng Erythromycine 30 - 50mg/kg/24 giờ chia 4 lần uống hoặc Cotrimoxazole 30 - 50mg/kg/24 giờ, kèm theo Prednisolone 1 - 2mg/kg/ngày; Salbutamol 0.2 mg/kg/ngày; thời gian điều trị là 14 ngày, đối với trẻ sơ sinh thì không được dùng Cotrimoxazole.
Về phòng bệnh, cần chích ngừa vắcxin cho trẻ để tạo miễn dịch chủ động, khi phát hiện và cách ly sớm cho những trẻ nghi ngờ bị ho gà trong thời kỳ xuất tiết, cho uống Erythromycine để dự phòng khi trong nhà có người bệnh, hay có tiếp xúc người bệnh ở bên ngoài đặc biệt cho trẻ dưới 2 tuổi.
Phòng bệnh
Cách phòng bệnh tốt và hiệu quả nhất là đưa trẻ đi tiêm vắc-xin ho gà phối hợp đủ liều, đúng lịch.
Thực hiện chăm sóc trẻ mắc ho gà đúng cách. Cách ly trẻ với những người bị ho gà trong thời gian ít nhất 4 tuần kể từ khi có cơn ho điển hình.
Thường xuyên rửa tay sạch bằng xà phòng; che miệng lại khi ho hoặc hắt hơi; giữ gìn vệ sinh thân thể, mũi, họng cho trẻ mỗi ngày. Luôn đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng mặt trời. Vệ sinh những đồ vật tiếp xúc hằng ngày bằng dung dịch vô khuẩn.
Khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh ho gà thì phải cho trẻ nghỉ học, cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám và điều trị kịp thời.