Viêm não Nhật Bản là gì? Cách phòng và trị bệnh

Viêm não Nhật Bản là một bệnh nhiễm khuẩn thần kinh, với tỷ lệ tử vong rất cao hoặc có thể dẫn đến tình trạng tổn thương não vĩnh viễn. Bệnh do virus gây ra, lây truyền từ một số loài động vật như chim, lợn...

Tổng quan

Viêm não Nhật Bản (VNNB) là một bệnh nhiễm khuẩn thần kinh, với tỷ lệ tử vong rất cao hoặc có thể dẫn đến tình trạng tổn thương não vĩnh viễn. Bệnh do virus gây ra, lây truyền từ một số loài động vật như chim, lợn...

Nguyên nhân

Tiêm vắc xin là biện pháp hiệu quả phòng bệnh viêm não Nhật Bản.

Chim và lợn là khởi đầu các ổ chứa virus VNNB. Dù nhiễm virus, song lợn và chim không bị bệnh mà đóng vai trò là khâu trung gian (kho chứa), duy trì virus trong thiên nhiên.

Theo đó, muỗi hút máu của lợn, sau đó đốt sang người sẽ truyền virus sang người. Đến nay, đây là con đường duy nhất lây nhiễm VNNB. Hiện nay vẫn chưa ghi nhận ca bệnh nào lây truyền từ người sang người. Có nhiều loài muỗi có khả năng truyền bệnh, nhưng chủ yếu là hai loài: Culex Tritaeniorhynchus và Culex vishnui. Hai loài này hoạt động mạnh và hút máu vào lúc chập choạng tối, nên nguy cơ nhiễm bệnh cũng chính ở thời điểm này.

Từ tháng 5 đến tháng 10 - là mùa cây ăn quả phát triển, mưa nhiều, nhiệt độ cao, muỗi tăng nên đây là thời điểm cho những trận dịch lớn. Ở vùng nông thôn thường xảy ra dịch hơn thành thị, nhất là những vùng trồng trọt và chăn nuôi (nuôi heo). Đỉnh cao của dịch bệnh là tháng 6 và tháng 7. Từ tháng 10 trở đi, mật độ muỗi giảm xuống và dịch kết thúc.

Dấu hiệu

Ở trẻ lớn và người lớn, dấu hiệu thường gặp là:

- Bệnh thường khởi phát đột ngột với các triệu chứng như sốt cao 39 - 40ºC, kèm đau đầu, buồn nôn và nôn. Sau đó dẫn đến co giật, co cứng cơ và lú lẫn.

- Triệu chứng nổi bật trong giai đoạn toàn phát là những dấu hiệu ở não, ở màng não và rối loạn thần kinh thực vật. Dấu hiệu màng não có 2 triệu chứng phổ biến là “cứng gáy” và dấu hiệu Kernig (dấu hiệu này do bác sĩ khám và xác định). Rối loạn vận động thể hiện trên khuôn mặt như co cứng cơ mặt, co giật, run giật, liệt nửa người, mất vận động ngôn ngữ.

- Các triệu chứng thần kinh thực vật rất đa dạng và nặng nề như nhiệt độ cơ thể dao động, xanh tái, rối loạn hô hấp, tăng tiết đờm dãi, nhịp tim nhanh, chướng bụng, nôn, bí đại tiểu tiện và ngừng hô hấp đột ngột. Các triệu chứng tâm thần chủ yếu là rối loạn ý thức với các mức độ khác nhau từ u ám, ngủ gà đến hôn mê sâu.

Ở trẻ nhỏ, các dấu hiệu trên không điển hình và khó phát hiện hơn:

- Cần phải dựa vào một số dấu hiệu quan trọng là: nôn ói nhiều, thóp phồng (nếu còn thóp), khóc không thể dỗ nín hoặc khóc tăng lên khi trẻ được bồng lên hoặc làm thay đổi tư thế, gồng cứng người.

Diễn biến

Sau 4-8 ngày ủ bệnh, bệnh nhân có các triệu chứng “giống cảm cúm” như sốt nhẹ, sổ mũi, tiêu chảy, run, nhức đầu, nôn mửa... trẻ em thường kém ăn, sau đó tới giai đoạn phát bệnh.

Giai đoạn khởi phát: Bệnh khởi đầu với biểu hiện sốt và thường sốt rất cao 39-40ºC. Bệnh thường xảy ra đột ngột, có trẻ đang khỏe mạnh bỗng dưng sốt cao, co giật, dẫn đến lờ đờ, hôn mê trong 1-3 ngày. Diễn biến bệnh nặng lên rất nhanh. Trong thời kỳ này, bệnh còn có các biểu hiện kèm theo như rét run, đau đầu, mệt lả, buồn nôn.

Ngay trong 1 -2 ngày đầu, bệnh nhi đã xuất hiện cứng gáy, tăng trương lực cơ, rối loạn sự vận động nhãn cầu, lú lẫn hoặc mất ý thức. Ở một số trẻ nhỏ tuổi, ngoài sốt cao có thể thấy đi ngoài phân lỏng, đau bụng, nôn.

Giai đoạn toàn phát: Khi virus xâm nhập vào tế bào não tuỷ gây huỷ hoại các tế bào thần kinh. Lúc này các triệu chứng không giảm mà tăng dần. Các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật cũng tăng lên như vã nhiều mồ hôi, da lúc đỏ, lúc tái, rối loạn nhịp thở và tăng tiết trong lòng khí quản, mạch thường nhanh và yếu.

Giai đoạn này diễn ra ngắn, bệnh nhân nhanh chóng rơi vào tình trạng hôn mê sâu với rối loạn các chức năng sống. Những bệnh nhân vượt qua được thời kỳ này thì tiên lượng tốt hơn.

Giai đoạn lui bệnh: Từ tuần thứ hai, bệnh nhân đỡ dần, nhiệt độ giảm từ sốt cao xuống sốt nhẹ.

Vào khoảng ngày thứ 10 trở đi, nhiệt độ bệnh nhân trở về bình thường nếu không có bội nhiễm vi khuẩn khác. Bệnh nhân hôn mê dần dần tỉnh, không còn những cơn co cứng, hết nôn và đau đầu.

Khi mắc VNNB, khoảng 30% bệnh nhân nhập viện bị tử vong. Từ 30-50% số bệnh nhân sống sót bị các di chứng thần kinh và tâm thần nặng nề. Trong trường hợp được điều trị kịp thời và tiến triển tốt, các triệu chứng sẽ giảm dần và người bệnh có thể khỏi hẳn.

Biến chứng

Nếu không được chữa trị sớm, bệnh có thể có biến chứng rất nặng như viêm phổi, viêm phế quản hoặc viêm phế quản-phổi do bội nhiễm vi khuẩn. Ngoài ra có thể gặp một số có di chứng muộn sau một năm hoặc lâu hơn như động kinh, Parkinson. Bệnh viêm não Nhật Bản có tỷ lệ tử vong cao (khoảng từ 20-80%) thường gặp ở những bệnh nhân nặng như có co giật, hôn mê sâu, nằm lâu ngày, suy kiệt, viêm phổi nặng.

Điều trị

Cho đến nay, chưa có một phương pháp điều trị đặc hiệu nào cho bệnh này. Chủ yếu là điều trị triệu chứng, nâng đỡ cho bệnh nhân trong các đơn vị hồi sức cấp cứu (chống sốt, chống co giật, chống phù não, trợ tim mạch, hô hấp, chống rối loạn thần kinh thực vật, chăm sóc tích cực, dinh dưỡng tốt...).

Nguyên tắc buộc phải tuân thủ là tất cả các bệnh nhân VNNB đều phải được điều trị tại bệnh viện. Phải đưa trẻ đến viện ngay lập tức nếu sốt cao quá 12 giờ liên tục hoặc có các dấu hiệu như nôn, cứng gáy, rối loạn ý thức...

Việc nhập viện muộn hay sớm sẽ đóng vai trò rất lớn trong việc hạn chế tỉ lệ tử vong và tỉ lệ di chứng khi mắc VNNB. Chính vì thế, nếu có các dấu hiệu nghi ngờ bị VNNB (nhất là đối với người sống trong vùng dịch tễ và vào mùa dịch), bệnh nhân phải được nhập viện càng sớm càng tốt. Việc chẩn đoán bệnh (xét nghiệm máu và dịch não - tủy, huyết thanh học, điện não đồ...) đều phải được tiến hành tại các cơ sở y tế chuyên khoa.

Phòng bệnh

Cho đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh VNNB mà hậu quả do bệnh gây ra lại rất nặng nề. Chính vì vậy, biện pháp phòng bệnh luôn được đề cao trong cộng đồng. Mỗi người dân cần phải có ý thức phòng bệnh, nhất là trong mùa dịch để bảo vệ chính sức khỏe của mình và bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng.

Phòng bệnh không đặc hiệu: Trên phương diện toàn xã hội, phòng bệnh VNNB phải là công tác tổng lực bao gồm việc phòng chống tại các ổ dịch và vùng ven bằng cách phun thuốc diệt bọ gậy, giải quyết nước ứ đọng, phân, rác...

Về phương diện cá nhân, thực hiện tốt vệ sinh môi trường, giữ gìn nhà ở, cần tránh muỗi đốt bằng cách ngủ màn, sử dụng hương diệt muỗi hoặc thuốc xịt ngoài da chống muỗi đốt, gắn lưới cho tất cả các cửa nhà, cửa sổ. Khi sinh hoạt bên ngoài vào ban đêm, phải mặc quần áo dài, đi tất. Cần thông quang hoặc lấp các cống rãnh, ao vũng tù đọng quanh nhà, vệ sinh chuồng trại gia súc, gia cầm sạch sẽ để hạn chế muỗi, nên để chuồng trại xa nhà. Không cho trẻ em chơi gần chuồng gia súc để phòng muỗi đốt.

Phòng bệnh đặc hiệu: Đến nay, cách phòng bệnh duy nhất là tiêm phòng vắc-xin. Việt Nam đã đưa vắc-xin ngừa VNNB vào chương trình tiêm chủng mở rộng hoàn toàn miễn phí cho trẻ dưới 15 tuổi. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả phòng bệnh, trẻ cần tiêm vắc-xin đủ 3 liều. Mũi 1 lúc 1 tuổi, mũi 2 cách mũi 1 từ 7-14 ngày. Mũi 3 cách mũi 2 một năm.

Nếu chỉ tiêm 1 mũi thì không có hiệu lực bảo vệ. Tiêm đủ 2 mũi hiệu lực bảo vệ đạt trên 80%; tiêm đủ 3 mũi thì đạt 90-95% trong khoảng 3 năm. Do đó cứ 3-4 năm tiêm nhắc lại một lần cho đến khi trẻ qua 15 tuổi. Tác dụng phụ trầm trọng của chủng ngừa hiếm khi xảy ra. Những phản ứng nhẹ khá thường gặp (sưng chỗ chích, sốt, nhức đầu).

Thông Tin Cần Biết

Bệnh lây nhiễm khác

Tin hay đừng bỏ lỡ

TIN MỚI TRONG NGÀY