Quai bị và những điều cần lưu ý

Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây theo đường hô hấp. Trẻ em, thanh thiếu niên dễ mắc bệnh do chưa có kháng thể.

Tổng quan

Bệnh quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, do virut Paramyxo gây ra, thường gặp ở trẻ 5-8 tuổi, lây trực tiếp qua đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên.

Bệnh tuy lành tính nhưng có khả năng gây biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới hoặc viêm buồng trứng ở nữ giới và có thể dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống. Do là bệnh truyền nhiễm, thường xảy ra vào mùa đông - xuân; vì vậy, việc phòng bệnh là vô cùng quan trọng.

Nguyên nhân

Quai bị do vi rút paramyxovirus gây nên. Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm tuyến mang tai do vi rút quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, thường gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên. Người lớn cũng có thể mắc nhưng tỷ lệ thấp hơn. Khả năng mắc bệnh của nam giới cao hơn nữ giới.

Vi rút paramyxovirus lây truyền qua đường hô hấp và đường ăn uống, qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi. Vấn đề lây qua đường phân và nước tiểu hiện vẫn chưa được xác nhận dù vi rút quai bị có khả năng tồn tại trong nước tiểu khoảng 2-3 tuần. Khi bị nhiễm bệnh, vi rút nhân lên trong khoang tỵ hầu và hạch bạch huyết. Vi rút tăng cao trong huyết thanh khoảng 12-15 ngày sau nhiễm và lan ra các cơ quan khác. Thời gian lây từ 6 ngày trước cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần, sau khi có triệu chứng bệnh lý.

Dấu hiệu nhận biết

Triệu chứng dễ nhận biết là tuyến nước bọt mang tai hoặc dưới hàm hai bên to ra, có khi làm biến dạng mặt, mặt phình ra, cổ bạnh, cằm sệ.

Da vùng tuyến mang tai bị sưng căng, bóng, sờ nóng đau và không đỏ, ấn không lõm (đối với viêm tuyến nước bọt do virut), và đỏ, ấn lõm (đối với viêm tuyến nước bọt do vi khuẩn).

Nước bọt ít, quánh.

Lỗ ống Stenon viêm đỏ, hoặc có mủ chảy ra khi vuốt dọc ống tuyến (trong trường hợp nguyên nhân là vi khuẩn).

Sưng hạch góc hàm

Các triệu chứng khác: đau họng, đau hàm khi há miệng, khi nhai, nuốt, đau lan ra tai. Toàn thân có thể sốt, đau đầu, người mệt mỏi.

Thời gian biểu hiện bệnh lý khoảng 10 ngày. Tuy nhiên có khoảng 25% người bị nhiễm virut quai bị mà không có dấu hiệu bệnh lý rõ rệt, đây là những đối tượng có khả năng truyền bệnh mà người xung quanh không nhận biết. Bệnh quai bị gây miễn dịch bền vững khi đã mắc bệnh dù sưng 1 hay 2 bên tuyến mang tai nên ít khi bị quai bị lần 2.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định bệnh quai bị căn cứ vào 3 yếu tố dịch tễ, lâm sàng và xét nghiệm. Về dịch tễ, cần dựa trên thông tin bệnh nhân đang ở nơi đang có dịch bệnh, mùa bệnh thường vào mùa đông-xuân, người bệnh có tiếp xúc với người mắc bệnh quai bị khoảng 15 - 21 ngày trước đó. Về lâm sàng, bệnh nhân bị viêm tuyến nước bọt mang tai cấp tính không sinh mủ. Về xét nghiệm, thấy bạch cầu giảm, tế bào lympho tăng cao, amylase máu và nước tiểu cũng tăng cao trong trường hợp viêm tụy tạng tiềm tàng; dịch não tủy có albumin tăng ít, tế bào tăng nhiều, đa số là tế bào lympho trong trường hợp viêm màng não thanh dịch tiềm tàng do virút; đồng thời thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán huyết thanh đặc hiệu giúp cho chẩn đoán xác định, lưu ý huyết thanh phải lấy 2 lần cách nhau 1 - 2 tuần và phải có hiệu giá huyết thanh lần 2 tăng 4 lần so với huyết thanh lần 1 trở lên mới có giá trị chẩn đoán dương tính. Trong tất cả các trường hợp bệnh, để chẩn đoán quyết định phải phân lập được virút quai bị của bệnh nhân từ máu trong 2 ngày đầu, nước bọt và dịch não tủy trong tuần đầu và nước tiểu vào ngày thứ 12. Cần lưu ý chẩn đoán phân biệt với các trường hợp viêm tuyến mang tai do những nguyên nhân khác để tránh nhầm lẫn.

Các biến chứng thường gặp

Bệnh quai bị ở người lớn tuy ít gặp, nhưng thường nặng và có nhiều biến chứng hơn ở trẻ em. Có thể gặp các biến chứng sau:

Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn: Biến chứng này có tỷ lệ 20-35% ở người sau tuổi dậy thì mắc bệnh quai bị, thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày nhưng cũng có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời. Tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù như một sợi dây thường. Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày, sau đó khoảng 50% số trường hợp tinh hoàn teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số lượng tinh trùng và vô sinh.

Nhồi máu phổi: Là tình trạng một vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng, có thể tiến đến hoại tử mô phổi. Nhồi máu phổi là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến.

Viêm buồng trứng: Có tỷ lệ 7% ở nữ sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh .

Viêm tụy: Có tỷ lệ 3-7%, là một biểu hiện nặng của quai bị. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, buồn nôn, có khi tụt huyết áp.

Các tổn thương thần kinh: Viêm não có tỷ lệ 0,5%, bệnh nhân có các hiện tượng như: thay đổi tính tình, bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, rối loạn thị giác, đầu to do não úng thủy. Tổn thương thần kinh sọ não dẫn đến điếc, giảm thị lực, viêm tủy sống cắt ngang, viêm đa rễ thần kinh.

Bệnh quai bị ở phụ nữ có thai: Những phụ nữ bị quai bị trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng, trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.

Một số biến chứng khác: Viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác (gây giảm thị lực tạm thời), viêm thanh khí phế quản, viêm phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu. Vì viêm tuyến mang tai còn có thể gây ra do các virut khác (Coxackie, Influenza), do vi khuẩn (Staphylococcus aureus), do tắc ống dẫn tuyến nước bọt vì sỏi và viêm tinh hoàn còn có thể do lao, Leptospirose, lậu nên trong một số trường hợp khó chẩn đoán, bệnh nhân cần thực hiện một số xét nghiệm như: phân lập virut từ máu dịch họng, dịch tiết từ ống Stenon, nước tiểu hay dịch não tủy. Các phản ứng huyết thanh học: test ELISA, miễn dịch huỳnh quang, trung hòa bổ thể.

Đối tượng nguy cơ

Hơn 80% trường hợp mắc quai bị xảy ra ở trẻ em dưới 15 tuổi, thường gặp nhất là trẻ từ 6-10 tuổi. Người lớn cũng có thể bị mắc bệnh nếu không tiêm ngừa phòng bệnh trước đó. Sau khi mắc bệnh, bệnh nhân có miễn dịch vững bền tồn tại rất nhiều năm, có thể tái phát nhưng rất hiếm. Miễn dịch mẹ truyền cho con tồn tại khoảng 1 năm.

Nguồn bệnh là những người đang mắc quai bị cấp tính. Bệnh lây trực tiếp bằng đường hô hấp, chủ yếu do tiếp xúc với các giọt nước bọt hoặc các giọt chất tiết mũi họng của người bệnh bị văng ra khi người bệnh ho hoặc chảy mũi. Người mắc quai bị có thể lây lan cho người khác 1 tuần trước khi sưng tuyến mang tai và kéo dài 2 tuần sau khi sưng tuyến mang tai. Thời gian lây mạnh nhất vào khoảng 2 ngày trước khi viêm tuyến mang tai. Bệnh thường xảy ra ở thanh, thiếu niên sinh hoạt tập thể và lây lan nhanh, dịch bệnh dễ xuất hiện ở những nơi tập trung đông đúc như trường học, ký túc xá...

Khi bị bệnh quai bị nên làm gì?

Khi nghi là bị bệnh quai bị, nên đi khám bác sĩ để được chẩn đoán chính xác bởi vì viêm tuyến nước bọt không chỉ do virut quai bị mà còn nhiều loại virut hoặc vi khuẩn khác. Đối với thể bệnh viêm tuyến nước bọt không phải do virut quai bị, cần vệ sinh họng, miệng, đánh răng sau khi ăn, trước và sau khi ngủ dậy. Có thể súc họng, miệng bằng các dung dịch nước muối sinh lý và một số dung dịch sát khuẩn khác. Dùng thuốc hạ nhiệt, giảm đau. Ngoài ra, người bệnh cần uống nhiều nước vì sốt làm mất nước, mất chất điện giải, tốt nhất là uống dung dịch oresol. Cần nghỉ ngơi tại giường, tránh tiếp xúc với những người có nguy cơ cao mắc bệnh quai bị (lứa tuổi thanh thiếu niên) tối thiểu 10 ngày. Đối với thể bệnh có viêm tinh hoàn, cần nghỉ ngơi tại giường khi tinh hoàn vẫn còn sưng, đau. Cần thiết mặc quần lót để treo nhẹ tinh hoàn lên. Đối với nam giới có viêm tinh hoàn hoặc nữ giới bị viêm buồng trứng thì rất cần có ý kiến tư vấn của bác sĩ khám bệnh. Khi nghi ngờ có biến chứng, cần vào viện để được theo dõi chặt chẽ.

Cần cách ly người bệnh với người lành. Người bệnh và người chăm sóc bệnh nhân cần đeo khẩu trang y tế đúng tiêu chuẩn để hạn chế đến mức tối đa virut lây sang người chăm sóc, từ đó chúng lây cho người lành khác. Đối với đối tượng có nguy cơ cao (thanh, thiếu niên, người chưa có miễn dịch chống virut quai bị), cần tiêm vaccin phòng bệnh. Đây là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay để tạo cho cơ thể có đủ kháng thể đặc hiệu chống lại virut quai bị.

Điều trị

Điều trị bệnh quai bị không có thuốc đặc hiệu, nếu sử dụng kháng sinh thường không có tác dụng nên chỉ điều trị theo cơ chế và triệu chứng. Chống viêm tuyến nước bọt mang tai bằng biện pháp cách ly bệnh nhân thời gian tối thiểu 9 ngày, cho người bệnh nằm yên một chỗ, hạn chế đi lại nhất là trong thời gian còn sốt và sưng đau tuyến nước bọt khoảng 4 - 6 ngày; chườm nóng vùng hàm, nếu cần cho dùng thuốc an thành nhẹ, súc miệng bằng nước muối, uống nước chua, ngậm chanh, ăn nhẹ, ăn thức ăn lỏng những ngày đầu. Chống viêm tinh hoàn bằng cách mặc quần lót chật để treo tinh hoàn, chườm nóng; nằm nghỉ 5 - 7 ngày trong thời gian đau, dùng thuốc giảm đau và chống viêm, dùng vitamin E trong thời gian 1 - 2 tháng để tạo khả năng sinh tinh trùng sau viêm tinh hoàn. Chống viêm tụy tạng bằng cách nhịn ăn, thay thế bằng nước uống hoặc dịch truyền, dùng thuốc giảm đau. Chống viêm màng não bằng cách chọc dịch não tủy 1 - 2 lần, mỗi lần rút ra 10 - 15 ml; dùng thuốc chống viêm phối hợp với dung dịch ngọt glucose ưu trương truyền nhỏ giọt tốc độ nhanh cho đến khi bệnh nhân tỉnh, cần kết hợp với việc nuôi dưỡng và hộ lý bất động. Chống viêm đa khớp, viêm tuyến giáp trạng có thể dùng các loại thuốc để giảm viêm và chống đau thông thường.

Phòng bệnh

Nhìn chung, quai bị là bệnh lành tính, đa số các trường hợp đều tự hồi phục không có biến chứng. Tuy nhiên, vẫn có một số ít trường hợp có những biến chứng như: phụ nữ có thai bị quai mắc có thể bị sẩy thai, đẻ non (nhất là ở giai đoạn đầu của thai kỳ), ở nam giới tuổi trưởng thành, nếu viêm tinh hoàn nặng cả hai bên có thể dẫn đến vô sinh.

Phát hiện sớm bệnh nhân tại cộng đồng, tổ chức cách ly và điều trị kịp thời. Có thể cách ly điều trị tại nhà theo chỉ dẫn của bác sĩ đối với các trường hợp bệnh nhẹ. Không cho bệnh nhân tới trường học, nơi làm việc hay những nơi công cộng trong vòng 7-9 ngày kể từ khi phát bệnh. Bệnh nhân cần được hạn chế tiếp xúc, thường xuyên đeo khẩu trang, cần nghỉ ngơi tại chỗ, hạn chế vận động.

Thực hiện vệ sinh cá nhân, thường xuyên súc họng bằng dung dịch khử khuẩn hoặc nước muối loãng, đặc biệt chú ý cho nhóm trẻ em nhỏ tuổi. Thực hiện vệ sinh môi trường sống, làm thông thoáng nhà ở, tận dụng ánh sáng mặt trời.

Biện pháp dự phòng có hiệu quả nhất để phòng bệnh quai bị là tiêm vắc-xin phòng bệnh quai bị bắt đầu từ 12 tháng tuổi trở lên, để cơ thể miễn dịch với bệnh quai bị trong một thời gian dài hoặc có thể suốt đời. Trường hợp những người đã tiếp xúc với bệnh nhân mắc quai bị mà chưa tiêm vắc-xin phòng quai bị thì cần phải tiêm ngay để có thể bảo vệ bản thân tránh lây nhiễm. Lưu ý cần tiêm vắc-xin phòng quai bị không quá 72 giờ sau khi tiếp xúc với người mắc bệnh.

Thông Tin Cần Biết

Triệu chứng quai bị ở trẻ em dễ nhận biết nhất

Triệu chứng quai bị ở trẻ em dễ nhận biết nhất

Quai bị là một bệnh truyền nhiễm dễ lây lan qua đường hô hấp và thường gặp ở trẻ nhỏ. Khởi đầu triệu chứng quai bị không đặc hiệu như sốt nhẹ, đau người, kém ăn. Vì vậy, người bệnh có thể...

3 lầm tưởng thường gặp về bệnh quai bị

3 lầm tưởng thường gặp về bệnh quai bị

Mùa đông xuân là thời điểm bùng phát quai bị. Nhiều người cho rằng chỉ có trẻ con mới bị, khi đã bị biến chứng viêm tinh hoàn thì sẽ dễ vô sinh về sau. Điều cha mẹ cần biết về bệnh quai bị...

Bệnh lây nhiễm khác

Tin hay đừng bỏ lỡ

TIN MỚI TRONG NGÀY