Tai nạn đuối nước thường xảy ra do người không biết bơi ngã xuống nước, bị đuối sức do phải dầm người trong mưa, gió lạnh, đói, cơ thể mất nhiệt do nước lạnh, bị chuột rút...
Trong bão lũ, nhất là các nơi bị lũ ống, lũ quét, ngập lụt, mọi người kể cả người khỏe mạnh và biết bơi, đặc biệt là người già và trẻ em rất dễ bị nước cuốn trôi. Vì vậy, bà con trong vùng lũ lụt cần phải phòng tránh tai nạn đuối nước. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn đọc hiểu biết về kỹ năng cấp cứu người bị tai nạn đuối nước.
Trong và sau cơn bão thường có mưa to, triều cường dâng cao. Vùng rừng núi do nước từ trên cao đổ xuống rất nhanh chóng gây ngập lụt và tạo thành lũ ống, lũ quét nhấn chìm nhà cửa, sinh mạng của người dân. Vùng thấp hay đồng bằng thì nước dồn xuống dễ gây úng lụt lâu ngày. Sống trong lũ lụt, nguy cơ bị đuối nước là rất cao. Vì vậy, bà con cần nắm vững cách phát hiện và cấp cứu người bị đuối nước.
Thao tác hà hơi thổi ngạt cấp cứu người đuối nước (Ảnh minh họa)
Những mức độ ở nạn nhân đuối nước
Tai nạn đuối nước thường xảy ra do người không biết bơi ngã xuống nước, bị đuối sức do phải dầm người trong mưa, gió lạnh, đói, cơ thể mất nhiệt do nước lạnh, bị chuột rút (vọp bẻ); người biết bơi nhưng bơi đã quá mệt; nước lũ dâng nhanh khiến người ta không kịp chạy lên chỗ cao; bị dòng nước chảy mạnh cuốn trôi... Tùy theo mức độ nhẹ hay nặng, nạn nhân có các biểu hiện như sau:
Nạn nhân hít phải nước, sặc nước, khó thở rồi ngừng thở sau đó tim ngừng đập. Da xanh tím hay nhợt nhạt, khi vớt nạn nhân lên khỏi nước thấy bọt hồng trào ra đầy mũi và miệng. Choáng, sốc do ngạt nước: nạn nhân thấy ớn lạnh, cảm giác co thắt ngực và bụng, buồn nôn, chóng mặt, nhức đầu, nôn mửa, nổi mề đay khi bị dị ứng với nhiệt độ lạnh của nước, mạch nhanh. Nếu bị nặng, nạn nhân xuất hiện các triệu chứng trụy mạch, ngất. Ngất do bị ức chế thần kinh, nạn nhân chìm luôn, không giãy giụa, không kêu cứu được, chúng ta chỉ phát hiện được nếu nhìn thấy nạn nhân dưới nước. Có khi vừa mới xuống nước, nạn nhân đã thấy chóng mặt, ù tai, da đỏ, ngứa nhưng không biết đó là dấu hiệu nguy hiểm, vẫn tiếp tục ở dưới nước rồi bị ngất và chìm xuống. Thường gặp là nạn nhân mất ý thức hay ý thức lơ mơ, hoặc tỉnh nhưng hoảng hốt, kêu đau đầu, đau ngực, buồn nôn và nôn. Nhìn nạn nhân thấy da tím tái hay nhợt nhạt; cơ bắp máy giật; khó thở, thở nhanh và khò khè. Nếu có bọt hồng ở mũi, miệng là triệu chứng nạn nhân bị phù phổi; nhịp tim nhanh, loạn nhịp, huyết áp hạ, ngừng tim; người lạnh giá do bị hạ thân nhiệt.
Xử lý cấp cứu thế nào?
Cấp cứu ban đầu là quan trọng nhất, quyết định sự sống còn của nạn nhân, nếu xử trí chậm, nạn nhân bị thiếu ôxy não, rất khó cứu sống sau đó.
Cấp cứu ngay ở dưới nước: Người cứu nắm tóc kéo đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, tát mấy cái thật mạnh vào má nạn nhân để gây phản xạ hồi tỉnh và thở lại. Nhanh chóng quàng tay qua nách đưa nạn nhân vào bờ hoặc gọi thêm người hỗ trợ đưa nạn nhân lên bờ.
Nhanh chóng tiến hành hô hấp nhân tạo, hà hơi thổi ngạt ngay: khai thông đường hô hấp bằng cách đặt nạn nhân nằm ưỡn cổ và nghiêng sang một bên, dùng gạc hay khăn vải móc đờm dãi, dị vật khỏi mũi và miệng nạn nhân; đặt một khăn mùi soa hay miếng gạc qua miệng nạn nhân, dùng hai ngón tay cái và trỏ bịt mũi nạn nhân rồi thổi hơi trực tiếp vào miệng nạn nhân.
Nếu bị ngừng tim (bắt mạch quay không có) phải ép tim ngoài lồng ngực. Dùng 2 bàn tay chồng lên nhau ép lên lồng ngực ngoài tim, tần số ép khoảng 100 lần/1 phút, ước lượng bằng cách đếm 1, 2, 3, 4... mỗi lần đếm là 1 lần ép tim. Nếu chỉ có một người cấp cứu thì thổi ngạt 2 - 3 hơi lại ép tim ngoài lồng ngực 10 - 15 nhịp. Nếu có hai người cấp cứu thì một người thổi ngạt, một người ép tim ngoài lồng ngực, nhưng cần làm kiên trì cho đến khi tim nạn nhân đập lại và thở trở lại.
Khi tỉnh lại, nạn nhân sẽ nôn ra nước, nên phải để nạn nhân ở tư thế: mặt quay sang một bên, kê gối dưới 2 vai, nới rộng quần áo, phòng cho nạn nhân không bị ngạt trở lại vì sặc chất nôn. Người cấp cứu chỉ bỏ cuộc khi đã hô hấp nhân tạo và ép tim được 2 tiếng mà không thấy nạn nhân phục hồi.
Nếu gặp trẻ nhỏ bị đuối nước, người ta thường vác dốc ngược trẻ trên vai, động tác dốc ngược nạn nhân chỉ có tác dụng khai thông vùng họng và miệng, vì vậy không nên thực hiện ở người lớn và không nên làm quá 1 phút ở trẻ em. Nếu cấp cứu có kết quả, nạn nhân thở lại, cử động giãy giụa, hay nạn nhân vẫn còn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở thì gọi xe cấp cứu hay dùng mọi phương tiện sẵn có chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế có trang bị hồi sức cấp cứu. Trên đường vận chuyển vẫn phải tiếp tục cấp cứu và giữ ấm cho nạn nhân.
Việc điều trị tiếp tục tại bệnh viện: Chống suy hô hấp như sặc phổi, phù phổi cấp; chống hạ thân nhiệt, co thắt phế quản, loạn nhịp tim, tụt huyết áp. Bồi phụ nước và điện giải điều chỉnh thăng bằng kiềm toan. Phải chú ý phát hiện phù phổi cấp, hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển nên cần chụp phổi ngay và tiếp tục theo dõi tình trạng suy hô hấp, trụy mạch để xử lý kịp thời.
Đề phòng tai nạn đuối nước
Đồng bào trong vùng bão lũ, cần sơ tán theo hướng dẫn của chính quyền địa phương trước khi có bão lũ đến. Người già và trẻ em phải có người lớn trông coi giúp đỡ. Mọi người dù biết bơi cũng không tự ý bơi lội ra dòng nước lũ vì có thể bị nước cuốn trôi do sức nước rất mạnh.
Trẻ em đi học bằng ghe, thuyền bắt buộc phải có phao cứu sinh hoặc có người lớn đưa đi kèm. Học sinh cần được dạy bơi lội và kỹ thuật sơ cấp cứu để biết tự cứu mình và cứu bạn khi bị đuối nước; phải có nắp đậy an toàn bể nước, miệng giếng, cống rãnh... Trẻ em tắm ở sông, ao hồ phải mặc áo phao và phải có cha mẹ, người lớn trông coi. Những nơi thường xảy ra tai nạn đuối nước cần phải thành lập đội cứu hộ và các phương tiện cần thiết như ghe thuyền, thuốc, dụng cụ y tế để cấp cứu.