Xưa cây vừng được trồng nhiều làm thức ăn hằng ngày cho người dân nghèo khó. Song khi xã hội phát triển, người ta ít trồng vừng, thay vào đó ai muốn ăn phải đi chợ hoặc đặt hàng trên mạng mới có được.
Vừng thuộc cây thân thảo có lông mềm, cao 60-100cm. Chúng có đặc điểm: Lá mọc đối, đơn, nguyên, có cuống, hình bầu dục, thon hẹp ở hai đầu; hoa trắng, mọc đơn độc ở nách, có cuống ngắn; quả nang kép dài, có lông mềm, có 4 ô mở từ gốc lên; hạt nhiều, thuôn, vàng nâu hay đen, hơi bị ép dẹp, hầu như nhẵn, có nội nhũ.
Vừng đã được gieo trồng rất lâu đời và được cho là có nguồn gốc từ châu Phi, châu Á nhiệt đới, được trồng rộng rãi lấy quả. Tại Việt Nam, chúng có nhiều ở vùng miền Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích trồng vừng gia tăng bởi hiệu ứng của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở một số địa phương. Tại An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp và Long An ước có khoảng gần 7000 ha mè, chiếm 17% diện tích mè cả nước.
Xưa cây vừng được trồng nhiều làm thức ăn hằng ngày cho người dân nghèo khó. Song khi xã hội phát triển, người ta ít trồng vừng, thay vào đó ai muốn ăn phải đi chợ hoặc đặt hàng trên mạng mới có được. Đặc biệt, người giàu có rất thích thưởng thức chúng.
Từ vừng, người Việt có thể chế thành nhiều món ăn, từ dân dã cho đến “sang chảnh”.
Muối vừng
Đây là món ăn phổ biến và quen thuộc của người dân Việt Nam thời xa xưa. Vừng mua về nhặt bỏ sạn và các tạp chất có trong vừng. Cho chảo lên bếp, làm nóng chảo sau đó cho vừng vào, hạt nhỏ lửa và đảo đều tay. Do hạt vừng rất dễ chín nên trong quá trình rang phải hết sức để ý để tránh tình trạng cháy.
Khi thấy vừng bắt đều nổ lách tách thì tiếp tục đảo đều tay cho tới khi tiếng nổ thưa dần thì rang thêm khoảng 1 phút nữa thì tắt bếp rồi đổ ra rá cho vừng nguội.
Sau khi đổ vừng ra thì cho muối vào chảo rang đều tay với ngọn lửa nhỏ cho đến khi thấy các hạt muối vàng đều là được.
Muối sau khi đã được rang vàng thì cho vào một cối sạch và giã nhỏ. Khi thấy muối gần được thì cho vừng rang vào giã chung. Giã vừng vừa phải không để vừng bị giã nát ra. Sau khi giã muối và vừng chung với nhau xong thì cho hỗn hợp trên lên chảo đảo đều tay trong khoảng 1 - 2 phút là được. Để yên cho muối vừng nguội sau đó cho muối vừng vào hũ sạch để bảo bảo dùng dần.
Dầu vừng
Hạt vừng sau khi mua về nhặt bỏ các tạp chất, vo sạch, loại bỏ các hạt lép và để cho thật khô. Sau đó rang vừng trên ngọn lửa nhỏ, đảo đều tay để vừng không bị cháy.
Cho vừng đã rang vào máy xay, xay thành bột rồi đem bột đi hấp cách thủy trên nổi hấp. Cho phần bột đã hấp vào túi vải, dùng máy ép để ép lấy dầu, cho dầu thu được vào lọ thủy tinh sạch, bảo quản và dùng dần.
Chè mè vừng
Vừng đen mua về nhặt sách tạp rồi đem vo sạch và để ráo. Sau đó cho một chảo lên bếp, chờ chảo nóng thì cho vừng vào rang đều tay trên ngọn lửa nhỏ, khi thấy hạt vừng bắt đầu nổ lách tách thì rang tiếp cho đến khi tiếng nổ thưa hẳn thì tắt bếp. Đợi vừng nguội hẳn thì xay nhuyễn vừng bằng máy xay.
Gạo nếp vo, để ráo và cho vào rang trên ngọn lửa nhỏ, rang đều tay cho đến khi gạo nếp chuyển sang màu vàng là được. Đợi gạo nếp nguội và xay nhuyễn. Bột sắn dây cho vào bát hòa cùng nước lạnh cho đến khi bột tan hết là được.
Cho phần vừng vừa xay vào nồi cùng 500mL nước và đun với ngọn lửa nhỏ. Khuấy đều tay co đến khi vừng không còn màu trắng nữa mà chuyển sang màu đen là được. Tiếp tục cho phần gạo nếp đã xay vào đun cùng, khuấy đều, nấu cho đến khi hỗn hợp trên sôi thì cho sữa tươi và bột sắn dây và khuấy đều.
Sau đó tiếp tục cho thêm đường phèn vào và nấu thêm khoảng 3 phút nữa thì nêm nếm lại cho vừa ăn là có thể tắt bếp.