Nhồi máu cơ tim

Nhồi máu cơ tim là hiện tượng một cục huyết khối đột ngột làm tắc động mạch vành (mạch máu nuôi xung quanh quả tim). Hiện tượng này làm cho máu không chảy đến nuôi được phần cơ tim và làm một phần cơ tim bị chết đi. 

Tổng quan

Nhồi máu cơ tim là hiện tượng một cục huyết khối đột ngột làm tắc động mạch vành (mạch máu nuôi xung quanh quả tim). Hiện tượng này làm cho máu không chảy đến nuôi được phần cơ tim và làm một phần cơ tim bị chết đi. Tắc những mạch máu lớn có thể làm cho quả tim của bạn ngừng đập hoặc nó có thể gây ra một rối loạn nhịp chết người.

Chúng ta vẫn nghĩ nhồi máu cơ tim giống như các bộ phim vẫn chiếu trên truyền hình là một người đột ngột ôm lấy ngực và ngã ra. Nhưng thực sự không phải vậy, nhiều người chỉ có những cơn đau ngực rất nhẹ hoặc cảm thấy khó chịu ở dưới xương ức. Các dấu hiệu này có thể thoáng qua rồi lại bình thường ngay. Thậm chí, những người nhồi máu cơ tim có thể không nhận thấy triệu chứng này cho đến khi có những triệu chứng đau khác xảy ra.

Triệu chứng

Triệu chứng cảnh báo rõ ràng nhất là đau ngực. Cơn đau ngực thường ở giữa xương ức và kéo dài trong một vài phút. Cơn đau có thể xuất hiện rồi hết đi và lại đau lại. Cơn đau làm cho chúng ta cảm thấy như có gì ép lên ngực, đau như dao đâm hoặc cảm thấy nghẹt thở. Cơn đau cũng có thể xuất hiện ở các vị trí khác như ở sau lưng, trên cổ, trên hàm hoặc vùng dưới dạ dày. Khó thở thường xuất hiện đi kèm với cơn đau ngực.

Một số triệu chứng khác cũng có thể đi kèm như lạnh toát mồ hôi, nôn hoặc đau đầu nhẹ. Khi có những cơn đau ngực như vậy, hãy đến một bệnh viện gần nhất có thể hoặc đến một bệnh viện có trung tâm tim mạch can thiệp. Hiện nay, tại nước ta đã có hơn 55 trung tâm tim mạch can thiệp trên hơn 20 tỉnh thành trong toàn quốc. Khi nhồi máu cơ tim, các bạn nên đến những trung tâm tim mạch can thiệp này.

Khi có đau ngực, thậm chí bạn không chắc chắn là cơn đau ngực như miêu tả trên, bạn cũng nên đến bệnh viện kiểm tra.

Chúng ta nên nhớ nên đến viện sớm nhất có thể khi có đau ngực nghi do nhồi máu cơ tim.

Các dấu hiệu cảnh báo sớm

Hầu hết người bệnh từng bị nhồi máu cơ tim đều nói rằng họ cảm thấy không khỏe trước khi biến cố này xảy ra nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng. Thế nhưng, hầu hết họ đều bỏ qua. Một số ít lại nhầm lẫn các dấu hiệu này là triệu chứng của bệnh cúm hoặc trào ngược dạ dày, gây ra chứng ợ nóng, nhất là phụ nữ. Các dấu hiệu này bao gồm:

1. Mệt mỏi một cách bất thường gặp ở 100% người bệnh bị nhồi máu cơ tim

Đó có thể là mệt bải hoải, uể oải khi thức dậy hay khi thực hiện những việc quen thuộc mà trước đây vẫn có thể thực hiện bình thường.

2. Bồn chồn, lo lắng một cách vô cớ: 100% người sống sót sau nhồi máu cơ tim được phỏng vấn cho biết họ đều đã từng trải qua tình trạng này mà không biết đó là dấu hiệu cảnh báo của cơ thể. Càng gần đến cơn nhồi máu tim, tình trạng lo âu, hồi hộp càng tăng lên, khiến người bệnh trở nên sợ hãi.

3. Đau cánh tay hoặc khó chịu ở các khu vực khác của cơ thể: 86% người bệnh có dấu hiệu đau ở cánh tay hoặc ở vai trái, lưng, hàm, cổ

4. Khó thở, hụt hơi, chân tay rã rời: 86% người bệnh gặp phải tình trạng báo động này trước khi cơn nhồi máu tim đến gần. Khó thở, hụt hơi có thể khiến người bệnh đang đi lại hay đang đứng làm việc phải ngồi thụp xuống mới thở được, mặc dù đó vẫn là các công việc họ vẫn làm hàng ngày.

5. Đầy trướng bụng, khó tiêu, buồn nôn, nôn ói hoặc ợ nóng, buồn đi cầu gặp ở 71% các trường hợp nhồi máu cơ tim gặp phải triệu chứng này, nhưng họ thường bị nhầm lẫn với các triệu chứng của rối loạn tiêu hóa. Đây là điều rất đáng tiếc dẫn đến người bệnh phát hiện bệnh khi đã quá trễ.

6. Đau ngực, nặng ngực cho đến khó chịu ở trước vùng tim gặp 57% ở người nhồi máu cơ tim có dấu hiệu cảnh báo cơn nhồi máu cơ tim đến gần bằng các cơn đau tim, đau thắt ngực dữ dội. Số còn lại có thể chỉ xuất hiện tình trạng nặng ngực, khó chịu hay nóng rát ở ngực (cảm giác ngực bị vật nặng đè nén, tê hay nóng rát…)

7. Đau sau lưng hoặc đau ở vai, hàm gặp ở 43% các trường hợp.

Nghe có vẻ không đúng với các triệu chứng của cơn nhồi máu cơ tim, nhưng thực tế 43% người bệnh đã gặp phải các triệu chứng này mà không hề có cơn đau ở ngực trái. Cơn đau này thường xuất phát từ vùng giữa ngực, sau xương ức và xuyên qua lưng hoặc lan lên hàm.

8. Đau đầu, chóng mặt gặp ở 43% trường hợp.

Người bệnh gặp phải triệu chứng nhức đầu từ nhẹ váng vất đến đau nhức dữ dội.

9. Khó ngủ, trằn trọc, không ngủ được: 29% các trường hợp gặp phải triệu chứng này cả trước và sau cơn nhồi máu cơ tim đã xảy ra

Phụ nữ thường có nhiều dấu hiệu không điển hình này hơn là phái mạnh. Trong một nghiên cứu với 515 phụ nữ bị nhồi máu cơ tim cấp tính, triệu chứng thường được báo cáo nhất là mệt mỏi bất thường, rối loạn giấc ngủ, khó thở, khó tiêu và lo lắng. 78% số họ gặp ít nhất 1 dấu hiệu kể trên trước khi cơn nhồi máu xảy ra khoảng một tháng.

Nguyên nhân

Có 3 nguyên nhân chính gây thiếu máu cơ tim bao gồm: xơ vữa động mạch vành, huyết khối (cục máu đông), co thắt mạch vành (bệnh vi mạch vành) - do tình trạng viêm mãn tính ở lòng mạch. Trong đó, bệnh vi mạch vành đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển của thiếu máu cơ tim cục bộ và gây đau thắt ngực kể cả khi động mạch vành không bị tắc hẹp.

Nếu như xơ vữa mạch vành gây ảnh hưởng đến các động mạch lớn nằm trên bề mặt cơ tim, thì bệnh vi mạch vành lại làm cho các mạch máu nhỏ trong tim co thắt đột ngột thay vì nó phải giãn ra đúng lúc. Co thắt mạch vành có thể xảy ra ở cả những người có hoặc không cơ bệnh mạch vành.

Xơ vữa động mạch vành

Đây là nguyên nhân gây thiếu máu cơ tim phổ biến nhất do sự tích tụ chất béo (cholesterol) và canxi trong lòng động mạch vành. Theo thời gian, các mảng bám dày lên làm lòng mạch trở nên hẹp và xơ cứng, làm giảm lưu lượng máu đến nuôi tim. Hậu quả của việc cơ tim không nhận được đầy đủ oxy và dưỡng chất là các cơn đau thắt ngực, nặng ngực hoặc khó chịu ở lồng ngực.

Co thắt vành (bệnh vi mạch vành)

Thiếu máu cơ tim ngoài liên quan đến mảng xơ vữa thì còn xuất hiện do co thắt mạch vành. Cụ thể hơn là do rối loạn chức năng của nội mô ở hệ vi mạch vành (bao gồm các mạch máu nhỏ và mao mạch) nên còn được gọi là “Bệnh vi mạch vành”.

Nội mô là lớp áo lót trong của tất cả các mạch máu trong cơ thể. Nó vừa đóng vai trò bảo vệ giống như lớp rào chắn giữa dòng máu và thành mạch, đồng thời có chức năng điều hòa trương lực mạch máu, duy trì sự cân bằng giữa các quá trình co mạch và giãn mạch; đông và chống đông máu, đảm bảo sự lưu thông của dòng máu.

Rối loạn chức năng nội mô hệ vi mạch vành làm tăng tính kích thích gây co thắt vành, ảnh hưởng đến các tiểu động mạch và mao mạch nằm trong cơ tim. Đó chính là lý do mà nhiều người chụp cắt lớp thấy mạch vành “sạch sẽ” không bị xơ vữa nhưng vẫn bị đau thắt ngực do thiếu máu cơ tim.

Bệnh đái tháo đường, bệnh tăng huyết áp, hội chứng rối loạn chuyển hóa, hút thuốc lá, ít tập thể dục hoặc thường xuyên bị căng thẳng, lo lắng quá mức (stress) được cho là yếu tố thuận lợi cho bệnh vi mạch vành tiến triển.

Xuất hiện huyết khối trong lòng mạch

Phần lớn huyết khối trong lòng mạch vành là do mảng xơ vữa bị nứt vỡ tạo ra các cục máu đông gây cản trở dòng máu đi qua động mạch vành tới nuôi tim. Huyết khối là thủ phạm chính gây ra cơn đau thắt ngực không ổn định và cơn nhồi máu cơ tim (hội chứng mạch vành cấp).

Đối tượng nguy cơ

Nam giới trên 45 và nữ giới trên 50 là những người có nguy cơ cao nhồi máu cơ tim. Tuy nhiên, kể cả những người trẻ cũng có thể có nhồi máu cơ tim nhưng tỷ lệ ít hơn.

Những người trước đó đã có nhồi máu cơ tim thì rất dễ bị lại nhồi máu cơ tim lần tới.

Những người có tiền sử gia đình có nhồi máu cơ tim sớm như bố hoặc anh trai có nhồi máu cơ tim dưới 55 tuổi và mẹ hoặc chị gái có nhồi máu cơ tim dưới 65 tuổi.

Những bệnh nhân có đái tháo đường. Những bệnh nhân này có nguy cơ nhồi máu cơ tim tương tự như bệnh nhân đã bị nhồi máu cơ tim.

Những người có các yếu tố nguy cơ cao như những bệnh nhân rối loạn mỡ máu, huyết áp cao, hút thuốc lá, béo phì, ít hoạt động thể lực là những người dễ bị nhồi máu cơ tim.

Các câu hỏi khi bạn đến phòng khám cấp cứu

Khi đến bệnh viện, các thầy thuốc sẽ thường hỏi các câu hỏi sau cho bạn:

Bạn đau ngực khi nào?

Bạn đang làm gì khi đau ngực?

Cơn đau ngực ngay lập tức hay tăng dần dần lên?

Các triệu chứng đi kèm đau ngực như buồn nôn, toát mồ hôi hay khó thở?

Các xét nghiệm sẽ được làm nếu nghi ngờ nhồi máu cơ tim

Điện tâm đồ: điện tâm đồ có thể giúp phát hiện được có nhồi máu hay không, có thể xác định vùng tổn thương, nhịp tim bất thường.

Xét nghiệm máu: Các xét nghiệm máu giúp cho chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim. Một số xét nghiệm máu giúp cho tiên lượng được nhồi máu cơ tim.

Chụp động mạch vành: chụp động mạch vành giúp chẩn đoán xác định nhồi máu cơ tim hay không. Nó cũng giúp cho can thiệp động mạch vành bằng cách đặt stent vào chỗ tắc động mạch vành.

Biến chứng

Rối loạn nhịp tim: Đây là tình trạng nhịp tim bất thường, có thể nhanh, chậm so với tốc độ trung bình nhưng nặng nhất là rung thất rồi đến nhịp nhanh thất. Cũng coi là rất nặng nếu những rối loạn nhịp tim khác, nhất là rung nhĩ và bloc nhĩ thất cấp 3 kéo dài làm biến đổi huyết động, tụt huyết áp, suy tim. Các loạn nhịp tim thường gặp là loạn nhịp trên thất bao gồm nhịp nhanh xoang, nhịp chậm xoang, nhịp nhanh kịch phát trên thất, rung nhĩ... và các loạn nhịp thất như nhịp nhanh thất, rung thất...

Các bloc nhĩ thất: Biến chứng này thường gặp ở NMCT sau - dưới, được chia thành 3 mức độ khác nhau với độ 3 là bloc tim hoàn toàn, nhịp tim rất chậm kiểu nhịp thoát thất, có thể xảy ra rất đột ngột, tỷ lệ tử vong cao.

Các biến chứng suy bơm: Biến chứng quan trọng của NMCT (nhất là khi khối hoại tử càng lớn) là suy thất trái, suy tâm thu và cả suy tâm trương (loạn chức năng tâm trương với “thất cứng” tức là giảm giãn năng - compliance). Mức nặng nhất của suy bơm là “sốc do tim”. Sốc là giảm tưới máu mô, mà biểu hiện không chỉ là trụy mạch (huyết áp tâm thu dưới 90mmHg), mà còn có thiểu niệu, vô niệu, rối loạn ý thức, đầu chi nhợt, lạnh ẩm, toan huyết (có khi biểu hiện bằng thở chu kỳ).

Các biến chứng cơ học: Thường xảy ra trong tuần lễ đầu với các nguy cơ vỡ thành tự do thất trái; vỡ (thủng, rách) vách liên thất tạo ra một “thông liên thất mắc phải cấp” làm xuất hiện một âm thổi tâm thu mới; đứt rách cơ nhú như đứt rời hoặc chỉ rách hoặc chỉ rối loạn chức năng cơ nhú ở cột cơ của một trong hai lá van, tạo nên sa van, sinh ra hở hai lá cấp, với triệu chứng phụt ngược rất rõ, xuất hiện một âm thổi tâm thu mới.

Các biến chứng huyết khối, thuyên tắc: Biến chứng này gây nguy cơ tái phát NMCT khiến hoại tử lan rộng hoặc thêm hoại tử cơ tim mới thuyên tắc đại tuần hoàn. Thuyên tắc đại tuần hoàn thường xuất hiện sau 1-3 tuần, cục huyết khối xuất phát từ mặt trong thành thất trái, di chuyển theo dòng máu tới não, mạc treo, các chi, hiếm khi chui vào mạch vành. Thuyên tắc động mạch phổi, nếu người bị nhồi máu cơ tim đã nằm bất động quá dài hay lạm dụng thuốc lợi tiểu khiến máu cô đặc hơn thì biến chứng càng dễ xảy ra.

Các biến chứng sớm khác: Viêm màng ngoài tim cấp, xảy ra ngay sau mấy ngày đầu với biểu hiện đau dữ dội ngay phía sau xương ức lan ra sau lưng. Trong các biến chứng này thì đột tử là nặng nề nhất. Đột tử được tim mạch học trước kia xếp làm 1 trong 5 “đại biến chứng” NMCT. Nhưng ngày nay, với đơn vị hồi sức bám sát bệnh nhân, tử vong này được xếp vào mục các nguyên nhân cụ thể như: vỡ tim (thường gặp hơn cả), các rối loạn nhịp tim, sốc do tim, thuyên tắc phổi khối lớn, thuyên tắc mạch vành ngay ở đoạn thân chung động mạch vành trái.

Các biến chứng muộn của NMCT: Hội chứng Dressler xảy ra muộn (ở tuần thứ 3 - 10) vì hiện tượng tự miễn nhưng biến chứng này ít hẳn đi ở thời đại nong mạch vành và tiêu sợi huyết. Sốt, đau ngực khi hít vào sâu. Tăng bạch cầu, tăng tốc độ máu lắng và tăng hiệu giá “kháng thể kháng cơ tim”, đoạn ST chênh lên kiểu đồng vận nhiều chuyển đạo. Rất hiếm khi biến chứng về sau thành viêm màng ngoài tim co thắt. Phình thất. Đau thắt ngực sau NMCT chiếm tới 20 - 30% bệnh nhân. NMCT tái phát chiếm 5 - 20% bệnh nhân. Suy tim nhưng lý do cụ thể rất khác nhau, cần xem xét để điều trị. Đột tử vẫn có thể xảy ra ở thời kỳ muộn này, do rung thất, nhịp nhanh thất. Viêm quanh khớp vai sau NMCT với biểu hiện đau, cứng, thay đổi vận mạch da.

Điều trị

NMCT cần được điều trị ngay lập tức, vì vậy, hầu hết các trường hợp đều được điều trị ở phòng cấp cứu. Thủ thuật can thiệp mạch vành nhằm làm thông động mạch, giúp cung cấp máu cho tim.

Những trường hợp người bệnh còn sống sót nhưng không được can thiệp kịp thời thì một phần cơ tim sẽ bị chết và ảnh hưởng lâu dài đến chức năng co bóp của cơ tim. Khi bệnh nhân NMCT được đưa tới bệnh viện sớm, bệnh nhân có thể được chỉ định thuốc tiêu sợi huyết hoặc can thiệp thông tim đặt stent trong mạch vành, lúc này, cơ tim được tái tưới máu và tế bào cơ tim được bảo tồn.

Tuy nhiên, một số bệnh nhân bị đái tháo đường sẽ có hiện tượng hẹp tắc nhiều nhánh mạch vành và không thể can thiệp đặt stent. Lúc này, bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật bắc cầu động mạch vành khi tình trạng NMCT ổn định hơn.

Cho dù điều trị bằng phương pháp nào, sau cơn NMCT, bệnh nhân đều được sử dụng nhiều loại thuốc hỗ trợ và ngăn ngừa cơn nhồi máu tái phát. Người  bệnh cần theo dõi kiểm tra sức khỏe thường xuyên và uống đủ thuốc theo toa bác sĩ để duy trì tình trạng bệnh tối ưu và phòng ngừa suy tim sau NMCT.

Phòng bệnh

Người bệnh nên tìm hiểu kỹ về căn nguyên gây bệnh để có hướng phòng tránh. Trước hết, ngay từ khi chưa mắc bệnh đã cần chú ý đến chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục thường xuyên sẽ làm giảm tỷ lệ mắc nhiều yếu tố nguy cơ bệnh tim và mạch vành.

Chế độ ăn uống lành mạnh bao gồm ngũ cốc, rau, trái cây, thịt nạc. Nên giảm các thực phẩm trong chế độ ăn bao gồm đường, chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa, giàu cholesterol.

Tập thể dục nhiều lần trong tuần sẽ giúp cải thiện sức khỏe tim mạch. Nếu đã bị nhồi máu cơ tim, nên trao đổi với bác sĩ trước để được tư vấn một chế độ luyện tập vừa sức và mang lại hiệu quả.

Ngưng hút thuốc lá là yếu tố rất quan trọng vì sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ cơn đau tim và cải thiện sức khỏe tim mạch ũng như hô hấp. Cần tránh môi trường khiến bạn phải hút thuốc lá thụ động.

Đối với bệnh nhân đã mắc bệnh và đã can thiệp thay đổi lối sống tối ưu nhưng vẫn chưa kiểm soát được các yếu tố nguy cơ nên tuân thủ điều trị theo chỉ định của các bác sĩ chuyên khoa tim mạch.

Thông Tin Cần Biết

2 tư thế ngồi nguy hiểm có thể gây nhồi máu cơ tim

2 tư thế ngồi nguy hiểm có thể gây nhồi máu cơ tim

Nhiều người bàng hoàng trước thông tin siêu mẫu Đức Tiến qua đời ở Mỹ vì nhồi máu cơ tim. Đây là bệnh cực kỳ nguy hiểm, thường gặp ở người già nhưng gần đây ngày càng trẻ hóa. Từ trường hợp...

Bệnh tim mạch khác

Tin hay đừng bỏ lỡ

TIN MỚI TRONG NGÀY