Lăng Hoàng gia là nơi thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng, trong đó có ông Phạm Đăng Hưng - thân sinh bà Thái hậu Từ Dụ, cha vợ vua Thiệu Trị, cha chồng công chúa Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh, ông ngoại vua Tự Đức...
Mảnh đất Gò Công (Tiền Giang) không chỉ có nhiều sản vật hấp dẫn khách du lịch mà còn có các địa danh nổi tiếng như lăng Hoàng gia, ao Trường Đua và đền thờ Trương Định... Dân miệt vườn ví rằng nếu chưa đặt chân đến 3 địa danh này thì coi như chưa biết Gò Công.
Lăng Hoàng gia là nơi thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng, trong đó có ông Phạm Đăng Hưng - thân sinh bà Thái hậu Từ Dụ, cha vợ vua Thiệu Trị, cha chồng công chúa Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh, ông ngoại vua Tự Đức... Lăng tọa lạc tại Giồng Sơn, Gò Rùa (nay thuộc ấp Hoàng Gia, xã Long Hưng). Đặc biệt lăng mộ là một công trình kiến trúc mang đậm phong cách cung đình Huế và chứa đựng bao câu chuyện ly kỳ.
Lăng mộ có kiến trúc độc đáo cùng chiếc giếng cổ
Cuối thế kỷ 16, ông Phạm Đăng Long - cha ruột ông Phạm Đăng Hưng theo cha từ Quảng Ngãi vào vùng đất Gò Công tìm thế đất tốt để định cư với hi vọng con cháu phát tích. Ông đã đến Gò Rùa rồi thấy mảnh đất đẹp, phát hiện ra mạch nước ngầm nên quy tập mồ mả 3 đời về đây và xây nhà dựng cửa.
Con cháu dòng họ Phạm Đăng cho biết, sau khi ông tổ Phạm Đăng Hưng mất vào năm 1826, triều đình nhà Nguyễn đã cho xây dựng nhà thờ và lăng mộ ngay trên nền nhà cũ của dòng họ. Khu lăng mộ được xây theo kiến trúc phong thuỷ dành cho lăng tẩm vua quan lúc bấy giờ.
Cổng vào lăng Hoàng gia.
Năm 1849, khi vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc Công đã cho trùng tu, mở rộng nhà thờ, xây thêm tam cấp, cổng tam quan, ban thần vị theo nghi thức cung đình.
Năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, chuẩn bị vào viếng lăng nên cho trùng tu. Đến năm 1921, lăng mộ tiếp tục được trùng tu một lần nữa mang nét Á – Âu kết hợp và được lưu giữ cho đến ngày nay. Tháng 12/ 1992, Bộ Văn hóa – Thông tin có quyết định công nhận khu Lăng mộ Hoàng gia là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
"Nhà thờ và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng là công trình kiến trúc nghệ thuật mang đậm phong cách truyền thống dân tộc, được thể hiện qua các mảng chạm khắc trên mộ và trang trí bên trong nhà thờ bằng những điển tích rút ra từ “tứ linh, tứ quý” theo quan niệm phong thủy của người Á Đông", con cháu của dòng họ Phạm Đăng tự hào.
Theo quan sát, toàn bộ khu lăng mộ nằm trọn trong khuôn viên mát mẻ, có nhiều sứ đại cổ thụ, hoa lá cảnh vật bao bọc theo kiểu không gian nhà vườn xứ Huế. Cổng vào được xây theo lối tam quan cách điệu, trên mái lợp ngói lưu ly, đỉnh chạm trổ tượng cá chép trông trăng thể hiện sự cao quý của chủ nhân.
Lăng mộ có điểm đặc biệt nhất nằm ở chỗ sử dụng hoàn toàn chất liệu gỗ để xây dựng, không hề có đinh hay kèo cột... Tất cả được đục mộng tra vào nhau một cách tinh xảo.
Kiến trúc lăng mang phong cách Á - Âu kết hợp.
Mộ ông Phạm Đăng Hưng táng trên gò cao có hình dáng mai rùa. Mộ không xây theo kiểu dáng “đỉnh trụ” hình bát giác, trông vừa như chiếc nón lá vừa như búp sen. Mặt sau mộ, xây bình phong hình bán nguyệt, trên có chạm 4 con rồng, dưới có 5 con kỳ lân.
Ngoài ra trong lăng mộ có hệ thống mộ dòng họ Phạm Đăng được chôn theo một trục dài, toàn bộ đều làm bằng hồ ô dước, bao bọc chung quanh bằng một lớp tường dày và cao 90cm, các ngôi mộ tổ bố cục đơn giản theo hình vuông hoặc chử nhật).
Trong khuôn viên lăng còn có giếng nước cổ xây bằng gạch vồ - nước trong vắt và ngọt lịm. Hiện nó nằm ở phía sau nhà thờ Song không ai rõ giếng nước được đào từ năm nào, chỉ biết rằng nó gắn liền với dòng họ hoàng tộc danh tiếng Phạm Đăng, báo hiệu điềm lành.
Mộ phần của ông Phạm Đăng Hưng.
Một người dân tại thôn Hoàng Gia cho biết: "Đến mùa khô, các giếng trong làng lẫn ao sâu 10m đều cạn nước. Còn giếng trong lăng không sâu nhưng nằm ngay mạch nước nên lúc nào cũng có. Xưa dân trong xã đều dùng nước giếng này để "sống" qua mùa khô. Điều lạ kỳ hơn chính là từ khi Thái hậu Từ Dụ chào đời, nước ở giếng càng ngọt thanh hơn".
Tấm bia lạ kỳ do vua Tự Đức tặng
Ở khu lăng Hoàng gia còn có một nhà bia, bên dưới là tấm bia bằng đá trắng Quảng Nam đã hao mòn theo tháng năm nhưng phía trên có hình cây thánh giá màu đen ghi “Đây là nơi an nghỉ của Trung úy Barbé”.
Theo nhiều tài liệu lịch sử, bia đá này do Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng soạn vào năm Tự Đức thứ 10 (1857) nhằm ca ngợi công đức của Phạm Đăng Hưng. Năm ấy vua sai người chở bia đá bằng thuyền từ Huế vô Gò Công rồi mất tích một cách bí hiểm.
Năm 1899, vua Thành Thái cho dựng nhà bia bên phải bằng đá hoa cương. Nội dung tấm bia này giống y tấm bia Tự Đức ban trước đó.
Ở khu lăng Hoàng gia còn có một nhà bia, bên dưới là tấm bia bằng đá trắng Quảng Nam đã hao mòn theo tháng năm nhưng phía trên có hình cây thánh giá màu đen ghi “Đây là nơi an nghỉ của Trung úy Barbé”.
Chuyện kể rằng, lúc giải tỏa nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi (quận 1, TP.HCM) để xây dựng Công viên Lê Văn Tám, người ta thấy còn sót lại một tấm bia đá bỏ chỏng chơ. Có người phát hiện hàng chữ Nho sau hàng chữ Pháp liền báo cán bộ ở bảo tàng thành phố. Khi nhà nghiên cứu giám định mới té ngửa đó là tấm bia của vua Tự Đức ban tặng cho ông ngoại Phạm Đăng Hưng.
Hơn cả, trong tác phẩm “Scènes de la vie Annamite” có kể về chuyện tình éo le của viên Trung úy Barbé với cô gái Thị Ba - người của nghĩa quân Trương Định. Cô gái hẹn Trung úy Barbé ở đồn chùa Khải Tường đến đồn chùa Ô Ma vào đêm 7/12/1860. Trên đường đi, Barbé đã bị nghĩa quân Trương Định phục kích bất ngờ giết chết.
Liên kết tất cả sự kiện, nhiều sử gia nhận định chính Barbé cướp tấm bia vào năm 1858 về đồn và 2 năm sau y chết, người ta lấy tấm bia ấy làm bia mộ cho y. Đến khi nghĩa trang giải tỏa mới phát hiện ra và năm 1998, Bảo tàng TP.HCM mới tặng lại lăng Hoàng gia. Đó là lý do tấm bia có hàng chữ Pháp trên nền chữ Hán.
Phạm Đăng Hưng là con thứ ba của ông Phạm Đăng Long, sinh ra tại Gò Sơn Quy vào năm 1764. Ông là người thông minh, văn võ song toàn đã từng làm quan Thượng thư dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mạng. 20 tuổi ông thi đỗ Tam trường, được triều đình bổ làm Lễ sinh ở Phủ, sau đó được thăng Lại bộ Tham tri. Đến năm 1824 ông được sắc phong Lễ bộ Thượng thư, sau đó được giao phó giữ kinh thành Huế. Vua Minh Mạng rất khâm phục tài đức của Phạm Đăng Hưng nên đã kết thành thông gia hai lần với ông: gả công chúa cho Phạm Đăng Thuật - con trai Phạm Đăng Hưng và phong tước Phò mã đô úy; cho thái tử Miên Tông (tức vua Thiệu Trị) kết duyên với con gái ông Phạm Đăng Hưng (tức bà Từ Dụ). Năm 1825, Phạm Đăng Hưng bị bệnh mất tại Huế. Ông được vua Minh Mạng thăng hàm “Vinh lộc đại phu, trụ quốc hiệp biên, đại học sĩ, thụy trung nhã” và đưa về an táng tại Sơn Quy. |