Thủy đậu là gì? Cách phòng và trị bệnh

Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virut Varicella zoster gây ra. Bệnh rất dễ lây thành dịch. Bệnh nhân có thể lây bệnh sang người lành ngay từ khi có triệu chứng đầu tiên cho đến khi nốt đậu đóng vảy, do virut từ đờm dãi, nước mũi, nước bọt bắn ra khi nói, ho hoặc hắt hơi.

Tổng quan

Thủy đậu chưa có thuốc đặc trị, do đó Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo tiêm vắcxin ngừa thủy đậu là cách phòng bệnh hiệu quả. Hơn 90% người đã tiêm phòng sẽ tránh được hoàn toàn căn bệnh này. Khoảng 5 - 10% còn lại có thể bị thủy đậu sau khi tiêm chủng, nhưng các trường hợp này cũng chỉ bị nhẹ, với rất ít nốt đậu (dưới 50 nốt), thường không gặp biến chứng. Trẻ từ 1 - 12 tuổi cần được tiêm một liều vắcxin để ngừa thủy đậu. Từ 13 tuổi trở lên, mỗi người cần được tiêm 2 liều, cách nhau ít nhất 6 tuần để hiệu quả phòng bệnh tốt nhất. Phụ nữ có kế hoạch sinh con nên tiêm ngừa thủy đậu trước khi mang thai 3 tháng. Riêng phụ nữ trong thời kỳ mang thai không được tiêm vắcxin này.

Nguyên nhân

Virut gây bệnh thủy đậu lây chủ yếu qua đường hô hấp (hoặc không khí), người lành dễ bị nhiễm bệnh nếu hít phải những giọt nước bọt bắn ra khi bệnh nhân thủy đậu ho, hắt hơi hoặc nhảy mũi. Ngoài ra, khi tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu, bệnh có thể lây từ bóng nước khi bị vỡ ra, lây từ vùng da bị tổn thương hoặc lở loét từ người mắc bệnh. Đặc biệt, phụ nữ mang thai không may bị nhiễm bệnh sẽ rất dễ lây cho thai nhi thông qua nhau thai.

Triệu chứng

Thủy đậu thường không phát bệnh ngay khi virút xâm nhập mà ủ bệnh chừng 13 - 15 ngày. Trẻ vẫn ăn, tham gia hoạt động vui chơi bình thường, nếu cha mẹ lơ là sẽ không nhận ra thân nhiệt trẻ có thay đổi hoặc trẻ gãi ngứa trên người. Có khi phụ huynh tình cờ phát hiện một vài nốt lốm đốm đỏ trên đầu hay ở tay trẻ, nhưng lại nghĩ rằng do côn trùng cắn, nên rửa tay và thoa thuốc, lại vô tình làm bệnh lan nhanh hơn.

Sau thời gian ủ bệnh, trẻ sẽ có biểu hiện sốt nhẹ, sổ mũi, biếng ăn, đau nhức, ngứa và đốm đỏ mọc khắp người không theo một trình tự nào. Lúc đầu nốt đậu có màu trong, sau đó chuyển dần sang màu đục vì có mủ. Thoạt đầu trông mụn như giọt nước mà nếu lấy ngón tay căng nốt phỏng ra sẽ thấy mặt phẳng nhăn lại. Mụn có thể mọc thưa nhưng đôi khi mọc chi chít ngay cả ở niêm mạc miệng hay kết mạc mắt. Vì mụn không mọc cùng một lúc mà chia thành từng đợt cách nhau, nên có rất nhiều loại mụn trên cơ thể, nốt to, nốt nhỏ, nốt đỏ, hay đã đóng vảy.

Riêng đối với trẻ còi xương, suy dinh dưỡng thì bệnh thường nặng hơn, các nốt phỏng hay bị loét hoặc hoại tử,trẻ có thể bị viêm phổi, viêm tai giữa, viêm cầu thận cấp, viêm màng não nước trong.

Biến chứng

Bệnh thủy đậu có thế dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm. Khi các mụn phồng thủy đậu gây tổn thương lớn đến bề mặt da. Khi các nốt mụn đó vỡ hoặc bị trầy xước, bong tróc có thể gây viêm nhiễm, sưng tấy, nhiễm khuẩn da, viêm nhiễm có mủ... gọi là bội nhiễm da thứ phát. Ngay cả sau khi khỏi bệnh, các mụn thủy đậu này cũng để lại sẹo sâu trên da, rất khó hồi phục. Một biến chứng của thủy đậu có thể mắc phải là bệnh viêm tai, viêm tai ngoài, viêm tai giữa. Các mụn rộp của thủy đậu có thể mọc trong tai, gây viêm nhiễm; Các nốt thủy đậu khi bị vỡ hoặc trầy xước có thể bị nhiễm khuẩn, thậm chí nhiễm khuẩn huyết khi vi khuẩn xâm nhập từ mụn nước vào mạch máu; Bệnh thủy đậu có thể dẫn đến biến chứng viêm thanh quản khi các nốt đậu mọc sâu trong họng hoặc niêm mạc miệng gây viêm nhiễm, sưng tấy. Vi khuẩn từ các mụn thủy đậu có thể xâm nhập trực tiếp vào cơ thể gây viêm họng, viêm thanh quản. Bệnh viêm não, viêm màng não là biến chứng nguy hiểm nhất của bệnh thủy đậu ảnh hưởng tới sức khỏe lâu dài của trẻ.

Đối tượng nguy cơ

Những đối tượng sau đây dễ mắc thủy đậu và khi mắc dễ bị biến chứng là: phụ nữ mang thai; những người có hệ miễn dịch yếu (chẳng hạn như những người bị bệnh bạch cầu cấp tính, mạn tính, bệnh nhân ung thư, luput ban đỏ, người có HIV); bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế miễn dịch như corticoid; những người trong nhóm có nguy cơ tiếp xúc với siêu vi khuẩn Varicella zoster...

Bệnh thủy đậu với phụ nữ mang thai

Nếu thai phụ đã tiêm phòng hoặc đã từng mắc bệnh thủy đậu trước khi mang thai thì miễn dịch với bệnh này bởi trong cơ thể đã có kháng thể chống lại bệnh. Đối với thai phụ không tiêm phòng và mắc thủy đậu khi mang thai thì có thể bị sẩy thai và ảnh hưởng của bệnh trên thai nhi tùy vào từng giai đoạn tuổi thai. Người mẹ mắc bệnh thủy đậu khi mang thai dưới 20 tuần, sinh con ra sẽ có một tỷ lệ nhỏ (khoảng 2%) bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh. Các biểu hiện của hội chứng này có thể là: sẹo da, nhẹ cân, các bệnh về mắt (đục thủy tinh thể, tổn thương võng mạc...), tay chân ngắn, đầu bé, chậm phát triển tâm thần... Sau tuần lễ thứ 20 thai kỳ, hầu như không ảnh hưởng tới thai.

Bệnh thủy đậu chu sinh: Nếu mẹ mắc thủy đậu từ 5 ngày trước đến 2 ngày sau khi sinh thì trẻ sơ sinh sẽ dễ bị nhiễm bệnh và thường bị nặng dẫn đến tử vong cao, với tỷ lệ lên đến 25 - 30% số trường hợp bị nhiễm. Nếu mẹ mắc thủy đậu trước sinh trên 1 tuần, diễn biến lành tính thì trẻ sẽ nhận được kháng thể IgG từ mẹ, khi sinh trẻ có kháng thể nên không nguy hiểm.

Điều trị

Khi trẻ sốt cao cần cho uống thuốc hạ nhiệt paracetamol... Uống thuốc an thần chống co giật; Chống ngứa bằng các thuốc kháng histamin; Khi có bội nhiễm: dùng kháng sinh thích hợp. Đặc biệt chú ý tới công tác săn sóc: Xử lý tốt các nốt phỏng, nốt loét, đề phòng bội nhiễm. Vệ sinh da - giữ cho da khô sạch, không để cho trẻ gãi. Các nốt loét chấm dung dịch xanh-methylen hoặc thuốc tím 1/4.000, mặc quần áo vải mềm, sạch sẽ; Vệ sinh răng miệng bằng nước muối sinh lý; Vệ sinh tai mũi họng; Đảm bảo mặc đủ ấm, tránh gió, ăn uống đủ dinh dưỡng, đủ calo và các loại vitamin để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Thời gian cách ly tới khi ban hết mọc, vẩy đã bong hết.

Người lớn có thể lây bệnh của trẻ hoặc là trở thành trung gian truyền bệnh. Bệnh ở người lớn thường diễn biến nặng hơn ở trẻ, do đó khi chăm sóc trẻ cũng cần chú ý để không bị lây bệnh. Những đồ dùng như quần áo, khăn mặt của người bệnh cần được ngâm giặt bằng xà phòng, phơi nắng hoặc sấy khô diệt khuẩn.

Những lưu ý trong điều trị

Trẻ em vẫn chưa ý thức được nhiều về mức độ nguy hiểm và các biến chứng của bệnh, nên vẫn hay gãi khi bị ngứa rồi vệ sinh tay chân không sạch. Khi cha mẹ không chú ý, thì nốt loét có thể bị bội nhiễm gây nhiễm khuẩn da nặng hoặc nhiễm khuẩn máu.

Đặc biệt trẻ em ở nhóm tuổi từ 2-5 là đối tượng virút này dễ thâm nhập nhất

Trẻ bị nhiễm bệnh cần được chăm sóc kỹ càng, chu đáo và cách ly tại nhà trong suốt thời gian bệnh cho tới khi hoàn toàn khỏi bệnh. Cần phải cho trẻ ở riêng với các trẻ khác, ngay cả người lớn chưa bị bệnh này cũng phải tránh, không nên chủ quan vì bệnh lan rất nhanh. Phải luôn giữ da trẻ thật sạch sẽ. Không nên cho trẻ mặc áo quá dày vì dễ cọ xát vỡ mụn. Toàn bộ quần áo phải được giặt hàng ngày bằng xà phòng và ủi trước khi mặc. Cắt móng tay, móng chân thường xuyên.

Khi nốt phỏng bị vỡ, cha mẹ chỉ nên bôi thuốc xanh metylen. Tuyệt đối không bôi thuốc mỡ kháng sinh và thuốc đỏ. Nếu thực sự cần thiết thì nên hỏi bác sĩ về liều lượng sử dụng. Nếu trong trường hợp trẻ bị loét vài nốt mụn, có thể dùng nước oxy già rửa sạch vết loét và lấy bông thấm khô, và bỏ bông vào túi nilon đem bỏ thùng rác (loại nguồn lây bệnh).

Phòng bệnh

Thủy đậu là bệnh do virút Varicella-Zoster gây ra. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhiều nhất vẫn là trẻ em nhóm tuổi đi học. Đặc biệt trẻ em ở nhóm tuổi từ 2 - 5 là đối tượng virút này dễ thâm nhập nhất vì hệ miễn dịch của trẻ chưa hoàn thiện. Thông thường mỗi người chỉ bị thủy đậu một lần và có miễn dịch ngay sau khi bị bệnh, nhưng nếu sức đề kháng yếu thì bệnh vẫn có thể tái phát.

Thông Tin Cần Biết

Bệnh lây nhiễm khác

Tin hay đừng bỏ lỡ

TIN MỚI TRONG NGÀY