Mùa xuân là mùa hoa nở tươi tốt và cũng là thời điểm tốt nhất để nâng cao và bảo vệ sức khỏe, làm đẹp, phòng chống bệnh tật và kéo dài tuổi thọ...
Hoa cỏ có lợi đối với sức khỏe trên nhiều phương diện, ví như hương thơm của hoa có thể làm sạch không khí, kháng khuẩn tiệt trùng do chứa khá nhiều tinh dầu.
Khi hương thơm tiếp xúc với các tế bào niêm mạc trong khoang mũi, sẽ được truyền qua dây thần kinh khứu giác lên bán cầu đại não, giúp tinh thần trở nên phấn chấn, thông qua đó mà điều hòa âm dương, lưu thông khí huyết, cơ quan tạng phủ trong cơ thể được kích hoạt một cách hết sức tự nhiên tốt cho sức khỏe.
Dưới đây là một số loại hoa có thể dùng làm thuốc:
1. Hoa mơ làm thuốc
Người ta thường coi hoa mơ là tượng trưng của mùa xuân. Từ xưa đến nay vẫn lưu truyền những giai ngôn tuyệt cú về hoa mơ như: "Xuân sắc đầy vườn che chẳng thấu, một cành hồng hạnh ló đầu tường" và truyền thuyết về "rừng mơ" lại có quan hệ hết sức mật thiết với Đông y.
Tương truyền, Đổng Phụng- người nước Ngô thời Tam Quốc ẩn cư ở núi Lư Sơn, chuyên chữa bệnh cứu người mà lại không bao giờ lấy tiền công, chỉ cần người bệnh nặng trồng 5 cây mơ, người bệnh nhẹ trồng 1 cây mơ để báo đáp. Sau nhiều năm như thế, số người được chữa trị rất đông nên số cây mơ trồng được đã lên đến hơn mười vạn gốc, tươi tốt thành rừng. Đổng Phụng dựa vào rừng mơ có được mà cứu tế chữa trị miễn phí cho người nghèo, nên đã được đời sau ca tụng là thầy lang có đức hạnh.
Hoa mơ vị đắng, tính ôn và không độc, có công dụng bổ huyết và làm đẹp, thường được dùng để chữa vô sinh ở phụ nữ, các chứng bệnh về da...
Hoa mơ tượng trưng của mùa xuân, có công dụng bổ huyết và làm đẹp.
2. Hoa thủy tiên
Thủy tiên là loài cây thuộc họ tỏi, có hai loại hoa đơn và hoa kép còn được gọi là "Lăng ba tiên tử". Cũng có người giải thích rằng "thuỷ" là nước, "tiên" là cô tiên, vì đây là thứ hoa đẹp và trong trắng như cô tiên đang tắm dưới làn nước.Cũng có người thạo chữ Hán thì lại giảng rằng "thuỷ" là nước,"tiên" là do chữ "nhân" ghép với chữ "sơn", có nghĩa là người trên núi, mà người ở trên núi thì chỉ có là tiên mà thôi.
Theo dược học cổ truyền, hoa thủy tiên vị đạm, tính mát; rễ cây hoa vị cay đắng, tính lạnh; có công dụng khứ phong thanh nhiệt, hoạt huyết điều kinh, tiêu thũng giải độc; được dùng để chữa các chứng bệnh như kinh nguyệt không đều, phụ nữ ngũ tâm phiền nhiệt (nóng lòng bàn tay, bàn chân và vùng giữa ngực), mụn nhọt, viêm loét, viêm tuyến vú, quai bị, viêm hạch…
Y thư cổ Bản thảo cương mục cho rằng, hoa thủy tiên có công năng "khứ phong khí", thường được dùng dưới dạng tươi hoặc khô, uống trong với liều từ 3 - 6g; dùng ngoài giã nát đắp hoặc nấu nước rửa. Củ cây thủy tiên có tác dụng giảm đau rất tốt. Lấy củ giã nát đắp vào chỗ đau, có thể chữa được mụn nhọt, đinh độc.
3. Hoa trà my làm thuốc
Trà my là loài thảo mộc thân gỗ, hoa nở vào đầu xuân, búp hoa to, màu sắc rực rỡ... kéo dài hàng tháng, tươi lâu không tàn.
Theo dược học cổ truyền, hoa trà my vị ngọt đắng, tính mát, có công dụng lương huyết, chỉ huyết và tán ứ, dùng để chữa các chứng thổ huyết, chảy máu cam, băng huyết, kiết lị ra máu, bị bỏng, tổn thương do trật đả và các bệnh lý về da.
Để trị băng huyết ở phụ nữ dùng bài: Hoa trà 12g, lá ngải 12g, tiên hạc thảo 16g, sắc uống. Hoặ có thể dùng hoa trà lượng vừa phải, nghiền thành bột mịn, cho nước hoặc dấm ăn vào trộn đều, rồi bôi ngoài da để chữa các vết thương hoặc trộn với dầu vừng chữa bỏng.
Hoa ngọc lan làm thuốc chữa các chứng bệnh về mũi trong Đông y.
4. Hoa ngọc lan làm thuốc
Ngọc lan là loài thân gỗ thuộc họ mộc lan, hương thơm nhẹ nhàng cho nên từ cổ xưa đã được gọi một cách tao nhã là hoa "ngọc lan". Thi nhân Trương Mậu Ngô, đời Minh (Trung Quốc) có câu thơ rằng: "Đã có một cành xinh tựa ngọc, cần chi chín mẫu ủ chồi lan".
Từ xa xưa, ngọc lan đã được dùng làm thuốc để phòng chống bệnh tật. Ngọc lan có nhiều chủng loại, trong đó có một loài nhỏ bé xinh xắn, màu phớt tím nên gọi là ngọc lan tím hay tân di, vì trên búp hoa khô của nó có lớp lông tơ màu vàng kim, cho nên còn gọi là bút mộc.
Theo dược học cổ truyền, tân di vị cay tính ấm, có tác dụng thông tị khiếu, tán phong hàn. Nhà bác học Lý Thời Trân trong cuốn "Bản thảo cương mục" đã viết: "Hoa tân di chủ yếu chữa các chứng về ngũ tạng, thân thể hàn nhiệt, đầu phong não thống, tị uyên, chảy máu cam, viêm mũi...", là vị thuốc chuyên dùng để chữa các chứng bệnh về mũi trong Đông y. Người ta thường hái tân di khi còn là nụ chưa nở thành hoa phơi khô để dùng dần, khi dùng pha vào nước sôi uống thay trà.
Mời bạn xem thêm video:
Cẩn trọng với 5 bệnh mùa Đông - Xuân ai cũng có thể mắc phải.