Loãng xương là hiện tượng suy giảm về mật độ xương khiến xương trở nên giòn và dễ gãy.
Tổng quan
Loãng xương là hậu quả của sự phá vỡ cân bằng bình thường của 2 quá trình tạo xương và hủy xương, quá trình tạo xương suy giảm trong khi quá trình hủy xương bình thường.
Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến loãng xương:
Do sự lão hóa cơ thể, NCT ít hoạt động ngoài trời, thiếu vitamin D, chức năng dạ dày, ruột, gan, thận và tạo xương suy yếu, xương bị thoái hóa.
Do nội tiết tố sinh dục nữ suy giảm: Ở phụ nữ thời kỳ trước và sau khi mãn kinh thì hormon sinh dục nữ giảm, dẫn đến tăng nhanh quá trình chuyển canxi từ xương vào máu. Một nghiên cứu cho thấy phụ nữ sau khi mãn kinh, hàng năm mất 2 - 3% canxi. Nếu phụ nữ ở thời kỳ này không chú ý bổ sung canxi thì ngoài 60 tuổi, hàm lượng canxi trong xương chỉ còn bằng một nửa thời con gái. Vì thế phụ nữ bị loãng xương nhiều gấp 5 - 6 lần so với nam giới.
Nội tiết tố của tuyến cận giáp có vai trò điều hòa nồng độ canxi trong máu, nếu canxi trong thức ăn không đủ để duy trì nồng độ canxi cần thiết trong máu, khi đó tuyến cận giáp tiết ra nhiều nội tiết tố điều canxi trong xương chuyển ra bổ sung cho máu nhằm duy trì sự ổn định nồng độ canxi trong máu, tình trạng này kéo dài làm cho kết cấu xương bị thưa loãng.
Do ăn uống thiếu chất: Nếu chế độ dinh dưỡng thiếu canxi, phospho, magie, acid amin và các nguyên tố vi lượng cũng dẫn đến loãng xương. Do bị suy giảm miễn dịch cũng dễ bị loãng xương.
Dấu hiệu
Những dấu hiệu bệnh chỉ xuất hiện khi trọng lượng xương giảm trên 30%. Bệnh xảy ra tự nhiên hoặc sau một chấn thương, đôi khi tình cờ chụp Xquang mà thấy.
Biểu hiện là một hội chứng cột sống: đau và hạn chế vận động cột sống, cánh chậu, bả vai. Đau làm cho cột sống cứng đờ, co thắt các cơ cạnh sống, gõ ấn vào các gai sau đốt sống đau tăng và lan tỏa. Đau tăng khi vận động, đứng, ngồi lâu, đau giảm khi nghỉ ngơi. Đau tái phát từng đợt, thường sau khi vận động nhiều, chấn thương nhẹ, thay đổi thời tiết. Đôi khi có hội chứng rễ thần kinh biểu hiện bằng đau thần kinh hông to, đau thần kinh liên sườn. Cột sống giảm dần chiều cao, biến dạng đường cong sinh lý dẫn đến gù vùng lưng hay thắt lưng, chiều cao cơ thể giảm đi rõ rệt so với khi còn trẻ tuổi. Xương dễ gãy, đôi khi chỉ một chấn thương nhẹ cũng làm gãy cổ xương đùi, gãy đầu dưới xương quay, gãy lún đốt sống. Người ta chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn 1, bệnh nhân chỉ có biểu hiện đau âm ỉ, đau tăng khi đứng hay ngồi lâu; giai đoạn 2, bệnh nhân bị giảm chiều cao cơ thể, gù lưng; giai đoạn 3: dễ gãy xương do chấn thương nhẹ.
Chụp Xquang thấy hình ảnh xương thưa, loãng; đốt sống bị lún ở nhiều đốt, thân đốt sống giảm chiều cao và biến dạng, có hình ảnh giống thấu kính phân kỳ hay hình chêm. Đo mật độ xương bằng máy có thể thấy các mức độ loãng xương.
Các thói quen xấu dễ gây loãng xương sớm
Chế độ ăn: Loãng xương có thể xảy ra ở những đối tượng có chế độ ăn ít canxi, dẫn đến loãng xương. Người mắc phải chứng biếng ăn, cung cấp không đủ dẫn đến thiếu năng lượng, protein và canxi, có nguy cơ cao bị loãng xương. Một yếu tố liên quan tình trạng loãng xương sớm là ăn nhiều muối. Mỗi người mỗi ngày chỉ cần ăn tổng cộng khoảng 5g muối/ngày là đủ. Ăn nhiều muối bao nhiêu, sẽ làm thất thoát lượng canxi trong cơ thể bấy nhiêu. Mà canxi càng tổn thất bao nhiêu, thì xương cốt lại mềm yếu bấy nhiêu.
Thói quen uống quá nhiều nước ngọt có ga, cà phê hoặc trà sẽ làm hỏng xương: Những người uống nhiều bia rượu sẽ bị loãng xương sớm. Nguyên nhân do rượu gây cản trở sự hấp thụ canxi của cơ thể, càng uống rượu, cơ thể càng thiếu canxi.
Giảm cân không đúng cách: Trong quá trình chuyển hóa dinh dưỡng, lượng lipid hợp lý sẽ chuyển hóa thành estrogen, giúp tăng khả năng hấp thụ canxi, thúc đẩy quá trình hình thành xương và ngừa loãng xương. Tuy nhiên, khi giảm cân quá mức sẽ giảm dinh dưỡng cung cấp cho xương, làm giảm mật độ xương, loãng xương.
Hút thuốc lá: Có những bằng chứng cho thấy hút thuốc lá làm cho xương yếu đi. Thời gian hút thuốc càng lâu, lượng thuốc hút mỗi ngày càng nhiều, sức khỏe của xương lại càng tồi tệ. Thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc lá (hút thuốc lá thụ động), cơ thể sẽ không thể hình thành các mô xương mới khỏe mạnh.
Lối sống ít vận động: Làm cho con người có nguy cơ mắc loãng xương cao hơn nhiều lần những người thích vận động. Nếu đặc thù công việc ngồi yên một chỗ, cơ bắp sẽ bị lão hóa một cách nhanh chóng. Ngoài ra, các khớp xương không được vận động sẽ trở nên yếu hơn so với người hay vận động.
Uống thuốc mà chưa hiểu tác dụng phụ của thuốc: Theo thói quen, nhiều người có bệnh là tự đi mua thuốc uống mà không để ý tác dụng phụ của thuốc. Một số loại thuốc uống dài ngày sẽ tác động tiêu cực đến xương như thuốc chống động kinh và corticosteroid có thể gây mất hoặc hao hụt xương. Ngoài ra, loãng xương còn có thể xảy ra khi dùng các thuốc điều trị co giật, trào ngược dạ dày thực quản, ung thư và chống thải ghép.
Biến chứng
Khi bị bệnh loãng xương không điều trị hoặc điều trị không đúng phác đồ, hậu quả xấu nhất là rạn xương, nứt vỡ hoặc gãy xương, ngoài ra còn có thể cong xương, cong vẹo cột sống, cong ống chân, chiều cao giảm dần... Hiện tượng gãy, lún cột sống, gãy cổ xương đùi, xương cẳng chân, xương cẳng tay rất có thể xảy ra khi có một tác động mạnh (ngã, gập chân, trượt chân...).
Trong cơ thể, loại xương nào thường chịu tác động nhiều nhất, chịu lực nhiều nhất, khi loãng xương, rất dễ bị tổn hại hơn cả (cột sống, xương đùi, cẳng chân, cánh tay, cẳng tay). Vì vậy, gãy cổ xương đùi, gãy cổ tay, gãy khớp háng thường chiếm tỉ lệ cao nhất trong bệnh lý loãng xương ở người cao tuổi.
Điều trị
Bệnh loãng xương có thể được cải thiện nhờ một chế độ ăn uống sinh hoạt và dùng thuốc hợp lý như:
Duy trì một chế độ sinh hoạt hợp lý, bao gồm lao động, tập luyện-vận động, nghỉ ngơi… phù hợp với từng lứa tuổi. Việc vận động đều đặn ngoài trời sẽ giúp cho hệ xương khớp được chắc khỏe, hệ cơ bắp dẻo dai, tinh thần sảng khoái và minh mẫn. Riêng ở người cao tuổi, cần đề phòng té ngã trong sinh hoạt, tập luyện, tránh quá sức và cũng tránh thụ động, ngồi một chỗ.
Về dùng thuốc, thuốc giảm đau chỉ dùng khi cần thiết, tùy mức độ có thể dùng các thuốc giảm đau đơn thuần như paracetamol hay dùng calcitonine xịt mũi hoặc tiêm bắp cho các trường hợp đau nặng sau gãy xương (thuốc này vừa có tác dụng ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương vừa có tác dụng giảm đau do loãng xương). Tránh lạm dụng các thuốc kháng viêm giảm đau, đặc biệt nhóm thuốc kháng viêm chứa corticosteroides, sẽ làm cho tình trạng loãng xương nặng thêm và khó kiểm soát.
Bệnh nhân cần được sử dụng thuốc để ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương và kích thích hoạt động của các tế bào sinh xương theo chỉ định và theo dõi của thầy thuốc. Hiện nay, đã có nhiều loại thuốc điều trị loãng xương thông qua việc ức chế hoạt động của tế bào hủy xương, hiệu quả, an toàn và dễ sử dụng. Tuy nhiên để có kết quả, việc điều trị loãng xương cần toàn diện, liên tục và lâu dài. Kết quả điều trị thường được đánh giá sau 2 năm, chi phí cho điều trị thường khá cao so với mức sống hiện nay của đa số người dân lao động.
Chính vì vậy việc phòng ngừa bệnh có ý nghĩa rất lớn, cả về mặt hiệu quả và kinh tế.
Phòng bệnh
Nguy cơ loãng xương không chừa một ai nhất là phái nữ từ lứa tuổi tiền mãn kinh đến già vì vấn đề hấp thu và chuyển hoá canxi có liên quan đến một hormon buồng trứng là oestrogen. Ở tuổi mãn kinh và hết kinh hormon này giảm đi, do đó ảnh hưởng đến quá trình tạo xương. Việc tích lũy canxi tối đa để tạo ra khối xương vững chắc cần đạt được ở tuổi thanh niên. Do đó ngay từ nhỏ, từ lúc thanh, thiếu niên luôn cần một chế độ ăn đủ dinh dưỡng và canxi. Một chế độ ăn không cân đối và thiếu canxi cũng là một nguyên nhân dẫn đến bệnh loãng xương. Vitamin D tham gia điều hòa tương quan hợp lý giữa canxi và photpho trong máu.
Vì vậy, một chế độ ăn cân đối, hợp lý, giàu canxi sẽ giúp phòng bệnh loãng xương và làm hạn chế tiến triển của bệnh này. Nhu cầu canxi của cơ thể khác nhau theo lứa tuổi: Trẻ em dưới 15 tuổi cần 600- 700mg canxi/ngày. Người trên 15 tuổi và người lớn cần 1000mg canxi/ngày. Người già cần nhiều canxi hơn vì khả năng hấp thu canxi của họ thấp hơn. Với người trên 50 tuổi cần 1200mg canxi/ngày.
Canxi có nhiều ở trong một số thực phẩm sau: Sữa và các chế phẩm của sữa (bơ, phomat) là thức ăn thuận tiện, giàu canxi và canxi ở dạng dễ hấp thu. Ngoài ra, các thực phẩm giàu canxi còn có tôm, cua, cá. Tốt nhất là cá, tôm, cua kho nhừ ăn cả xương, đây là nguồn canxi hữu cơ tốt nhất, giúp cơ thể hấp thu và sử dụng được.