Ung thư thực quản là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào biểu mô của thực quản.Ung thư thực quản là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào biểu mô của thực quản.
Tổng quan
Thực quản là một ống tiêu hóa chứa thức ăn và các chất lỏng đi từ họng xuống dạ dày. Các tuyến của thực quản chế tiết ra các chất nhầy giúp làm ẩm đường dẫn thức ăn và thức ăn có thể đi xuống dạ dày dễ dàng hơn.
Ở người trưởng thành thực quản dài khoảng 25cm.
Ung thư thực quản là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào biểu mô của thực quản. Bao gồm hai loại chính là ung thư biểu mô vảy và ung thư biểu mô tuyến. Ung thư biểu mô vảy xuất phát từ tế bào dạng biểu bì ở thành thực quản và thường xuất phát ở phần trên và giữa thực quản. Ung thư biểu mô tuyến thường phát triển từ tổ chức tuyến ở phần dưới thực quản.
Các giai đoạn
Giai đoạn 1: Ung thư chỉ nằm ở lớp trên cùng của thành thực quản.
Giai đoạn 2: Ung thư lan đến lớp sâu hơn của thành thực quản hoặc xâm lấn đến tổ chức bạch huyết lân cận. Ung thư chưa xâm lấn đến các bộ phận khác của cơ thể.
Giai đoạn 3: Ung thư xâm lấn lớp sâu hơn của thành thực quản hoặc xâm lấn tổ chức hoặc hạch bạch huyết trong vùng cạnh thực quản.
Giai đoạn 4: Ung thư xâm lấn các bộ phận khác của cơ thể. Ung thư có thể lan đến mọi vị trí bao gồm: gan, phổi, não, xương.
Yếu tố nguy cơ
Hình ảnh nội soi khối u thực quản.
Yếu tố gây bệnh chính xác của ung thư thực quản hiện nay chưa rõ. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra có một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư thực quản: tuổi cao, nam giới, hút thuốc, uống rượu... Phần lớn các bệnh nhân mắc bệnh ở tuổi trên 60. Hút thuốc lá hoặc các chế phẩm có thuốc lá là nguy cơ chủ yếu gây ung thư thực quản.
Những người nghiện rượu hoặc uống rượu thường xuyên có nguy cơ cao bị ung thư thực quản, nguy cơ này đặc biệt cao ở những người sử dụng cả rượu và thuốc lá; bệnh lý thực quản như viêm thực quản Barrett: loét thực quản kéo dài làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản; các bệnh lý khác gây hoại tử niêm mạc thực quản như nuốt phải chất acid hoặc các chất phụ gia khác cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư thực quản.
Ngoài ra, các bệnh nhân bị các bệnh ung thư vùng đầu, mặt, cổ có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư thứ hai ở vùng này, trong đó có ung thư thực quản.
Dấu hiệu
Ở giai đoạn sớm, ung thư thực quản thường không có biểu hiện triệu chứng. Tuy nhiên, khi khối u phát triển có thể xuất hiện các triệu chứng:
Nuốt nghẹn: là triệu chứng thường gặp nhất nhưng không đặc hiệu; khởi đầu có cảm giác nuốt vướng sau xương ức. Nuốt nghẹn mơ hồ, tương đối rõ khi nuốt thức ăn đặc. Nghẹn tăng dần và biểu hiện càng ngày càng rõ. Quá trình bệnh tăng dần, lúc đầu khó nuốt với thức ăn đặc sau khó nuốt với thức ăn lỏng. Cuối cùng uống nước cũng nghẹn.
Trớ: Là do khối u cản trở thức ăn, dịch tiết thực quản, nước bọt đọng lại khi ngủ trớ ra. Dịch trớ trào vào đường thở gây viêm đường hô hấp kéo dài, trội lên từng đợt. Người bệnh thường không nôn.
Triệu chứng khác: đau sau xương ức. Cảm giác đau mơ hồ, dai dẳng, khàn tiếng mức độ nhẹ do viêm đường hô hấp nhưng cũng có thể khàn rõ như tiếng vịt đực do u hoặc hạch di căn xâm lấn thần kinh quặt ngược; Rò thực quản - khí quản: ho khạc liên miên, đau ngực dai dẳng, hội chứng nhiễm trùng rõ. Triệu chứng thực thể nghèo nàn, đôi khi sờ thấy hạch to ở hố thượng đòn.
Gầy sút cân nhiều (trong vòng 1 tháng có thể sút trên 5kg) do nuốt nghẹn, suy dinh dưỡng; Sạm da, khô, các nếp nhăn nổi rõ và dễ nhận thấy.
Khi xuất hiện các triệu chứng nêu trên, cần phải đến cơ sở y tế để khám kiểm tra. Nếu nghi ngờ bác sĩ sẽ chỉ định làm một số xét nghiệm như chụp thực quản cản quang; nội soi thực quản dạ dày; cần thiết chụp cắt lớp vi tính (C.T. Scanner); hay xạ hình xương giúp chẩn đoán khối u đã di căn xương chưa.
Điều trị
Điều trị ung thư thực quản phụ thuộc một số yếu tố bao gồm kích thước, vị trí, sự lan tràn khối u và tình trạng chung của bệnh nhân. Điều quan trọng nhất trong điều trị ung thư thực quản là phối hợp dinh dưỡng. Điều trị dinh dưỡng cần đi trước khi tiến hành các biện pháp điều trị khác.
Phẫu thuật: Là biện pháp điều trị chủ yếu ung thư thực quản. Thông thường khối u được lấy cùng với một phần hoặc toàn bộ thực quản, tổ chức bạch huyết kế cận và các tổ chức khác trong vùng. Sau đó phần còn lại của thực quản sẽ được nối với dạ dày giúp bệnh nhân vẫn tiếp tục nuốt như bình thường. Trong một số trường hợp, đoạn nối có thể được tạo bởi một đoạn ruột non hoặc một ống nhựa.
Xạ trị: Xạ trị có thể được điều trị đơn thuần hoặc kết hợp hóa chất như một biện pháp điều trị khởi đầu thay cho phẫu thuật đặc biệt khi khối u lớn và ở vị trí khó khăn cho phẫu thuật. Thậm chí cả khi khối u không thể lấy bỏ được bằng phẫu thuật hoặc xạ trị thì điều trị tia xạ có thể giúp giảm đau và giúp bệnh nhân nuốt dễ dàng hơn.
Hóa trị liệu: Hóa chất có thể kết hợp xạ trị như biện pháp điều trị khởi đầu thay cho phẫu thuật hoặc nhằm làm giảm kích thước u trước phẫu thuật.
Điều trị laser: Laser liệu pháp chỉ ảnh hưởng đến các tế bào trong vùng điều trị và được sử dụng nhằm phá hủy tổ chức ung thư và giải phóng vùng tắc nghẽn của ung thư thực quản giúp làm giảm triệu chứng khó nuốt.
Điều trị quang động học: Có thể sử dụng liệu pháp quang động học giúp giảm các triệu chứng khó nuốt của ung thư thực quản.
Dinh dưỡng và theo dõi đối với bệnh nhân ung thư thực quản
Dinh dưỡng trong điều trị ung thư là rất quan trọng, tuy nhiên nhiều bệnh nhân ung thư thực quản do có khó khăn về nuốt, cảm giác mệt mỏi và không thoải mái nên ăn uống không ngon miệng. Ngoài ra, các tác dụng phụ điều trị như ăn kém ngon, buồn nôn, nôn, khô đau miệng sẽ làm cho bệnh nhân khó ăn. Bệnh nhân ung thư thực quản thường được khuyến khích cho ăn nhiều bữa nhỏ.
Theo dõi sau điều trị ung thư thực quản để phát hiện kịp thời các dấu hiệu bất thường. Nếu khối u tái phát, tiến triển hoặc xuất hiện khối u mới, bệnh nhân cần được điều trị càng sớm càng tốt. Theo dõi sau điều trị bao gồm: khám lâm sàng, chụp Xquang hoặc làm các xét nghiệm. Trong thời gian giữa các cuộc hẹn, bệnh nhân cần phải thông báo đầy đủ các triệu chứng bất thường cho bác sĩ càng sớm càng tốt ngay sau khi chúng xuất hiện.
Phòng bệnh
Để không bị ung thư thực quản, chúng ta cần từ bỏ hoặc không bao giờ hút thuốc lá và sử dụng các chế phẩm có thuốc lá và hạn chế uống rượu; thay đổi chế độ ăn tăng lượng rau và hoa quả ăn vào hằng ngày; đối với bệnh nhân bị bệnh Barrett thực quản, trào ngược dạ dày thực quản... cần điều trị sớm và triệt để.