10 lầm tưởng tai hại về đột quỵ, 2 điều đầu tiên hầu như ai cũng tưởng đúng

Ngày 20/03/2022 06:45 AM (GMT+7)

Nhiều người cho rằng đột quỵ chỉ xảy ra ở người già, hoặc đột quỵ không thể hồi phục 100%... Tuy nhiên, đó đều là những quan điểm sai lầm.

Số liệu từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Mỹ cho thấy, hơn 795.000 người ở Mỹ bị đột quỵ mỗi năm, khoảng 610.000 trong số đó đột quỵ lần đầu.

Năm 2019, đột quỵ là nguyên nhân thứ hai gây tử vong trên toàn cầu, chiếm 11% số ca tử vong.

Có ba loại đột quỵ chính. Đầu tiên và phổ biến nhất, chiếm 87% trường hợp, là đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Hiện tượng xảy ra khi dòng chảy của máu qua động mạch cung cấp oxy cho não bị tắc nghẽn.

Loại thứ hai là đột quỵ xuất huyết, xảy ra khi một động mạch trong não bị vỡ, từ đó làm tổn thương các mô xung quanh.

Loại thứ ba là thiếu máu não thoáng qua (Transient Ischemic Attack – TIA), xảy ra khi dòng máu lên não tạm thời bị chặn, thường không quá 5 phút.

Thiếu máu não là nguyên nhân gây đột quỵ. Ảnh minh họa

Thiếu máu não là nguyên nhân gây đột quỵ. Ảnh minh họa

Trong khi đột quỵ ngày càng phổ biến, nhiều người vẫn hiểu nhầm về căn bệnh này. Tiến sĩ Rafael Alexander Ortiz, trưởng khoa Phẫu thuật nội mạch thần kinh và X quang thần kinh can thiệp tại Bệnh viện Lenox Hill (Mỹ), chỉ ra 6 hiểu nhầm chính về đột quỵ mà nhiều người trong chúng ta dễ mắc phải. 

Hiểu lầm 1: Đột quỵ là do tim mạch có vấn đề 

Mặc dù nguy cơ đột quỵ có liên quan đến các yếu tố nguy cơ tim mạch, thực chất đột quỵ xảy ra ở não, không phải ở tim.

"Một số người nghĩ đột quỵ là vấn đề của tim, điều đó không chính xác. Đột quỵ là vấn đề của não, gây ra bởi sự tắc nghẽn hoặc vỡ động mạch hoặc tĩnh mạch trong não chứ không phải tim", tiến sĩ Ortiz giải thích.

Hiểu lầm 2: Không thể phòng tránh đột quỵ 

Hiểu nhầm này rất phổ biến. Tuy nhiên, tiến sĩ Ortiz cho biết: "Các yếu tố nguy cơ phổ biến nhất về đột quỵ bao gồm tăng huyết áp, hút thuốc, lượng cholesterol cao, béo phì, tiểu đường, chấn thương ở đầu hoặc cổ và rối loạn nhịp tim. 

Đa phần các yếu tố nguy cơ này có thể được ngăn ngừa bởi lối sống tích cực. Tập thể dục thường xuyên và ăn uống lành mạnh có thể giúp làm giảm các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, cholesterol cao, béo phì và tiểu đường... Việc giảm uống rượu, giảm căng thẳng cũng giúp ích đáng kể trong việc giảm nguy cơ đột quỵ. 

Nhiều trường hợp đột quỵ có thể phòng tránh được nhờ các thói quen sống lành mạnh. Ảnh minh họa

Nhiều trường hợp đột quỵ có thể phòng tránh được nhờ các thói quen sống lành mạnh. Ảnh minh họa

Hiểu lầm 3: Đột quỵ không di truyền 

Các rối loạn gen đơn lẻ (ví dụ như bệnh hồng cầu hình liềm) làm tăng nguy cơ đột quỵ. Điều này liên quan chặt chẽ tới tính di truyền. Ngoài ra, các yếu tố di truyền khác như huyết áp cao, các nguy cơ tim mạch... cũng có thể gián tiếp làm tăng nguy cơ đột quỵ.

Do ảnh hưởng từ môi trường và lối sống chung, các yếu tố không lành mạnh trong gia đình có khả năng làm tăng nguy cơ đột quỵ trong các thành viên, đặc biệt khi kết hợp với các yếu tố nguy cơ di truyền.

Hiểu lầm 4: Triệu chứng đột quỵ khó nhận biết 

Các triệu chứng phổ biến nhất của đột quỵ được tóm tắt trong từ FAST. 

F (Face - mặt): Khuôn mặt sệ xuống, một bên của khuôn mặt trở nên tê liệt, khiến khuôn miệng cười lệch. 

A (Arm - cánh tay): Một bên cánh tay yếu, tê liệt, thậm chí bị buông thõng khi hạ xuống. 

S (Speech): Nói năng khó khăn, thậm chí nói lắp. 

T (Time): Thời điểm nên gọi cấp cứu. 

Một số triệu chứng khác của đột quỵ gồm: Tê yếu ở một bên cánh tay, chân... của cơ thể, khó nhìn bằng cả hai mắt, đi lại khó khăn vì chóng mặt, mất thăng bằng, đau đầu dữ dội... 

Hiểu lầm 5: Đột quỵ không điều trị được 

Tiến sĩ Ortiz lý giải, nhiều người cho rằng đột quỵ không thể chữa trị được. Tuy nhiên, đó là quan niệm sai lầm. Theo tiến sĩ, điều trị cấp cứu đột quỵ bằng cách tiêm thuốc làm tan cục máu đông, phẫu thuật cắt huyết khối cơ học xâm lấn tối thiểu để loại bỏ cục máu đông hay phẫu thuật có thể đảo ngược các triệu chứng của đột quỵ ở nhiều bệnh nhân, nhất là khi họ đến viện kịp thời - tức là trong vòng vài phút hoặc vài giờ kể từ khi các triệu chứng đầu tiên xuất hiện. Càng để lâu, khả năng đạt kết quả điều trị tốt càng thấp. 

Các kết quả nghiên cứu cho thấy những người tới cấp cứu trong vòng 3 giờ kể từ khi có các triệu chứng đầu tiên thường ít bị tàn tật hơn so với những người đến muộn hơn.

Hiểu lầm 6: Đột quỵ chỉ xảy ra ở người già 

Ngày càng nhiều người trẻ bị đột quỵ. Ảnh minh họa

Ngày càng nhiều người trẻ bị đột quỵ. Ảnh minh họa

Tuổi tác là một yếu tố nguy cơ đáng kể đối với bệnh đột quỵ. Nguy cơ đột quỵ sẽ nhân đôi 10 năm một lần, sau tuổi 55. Tuy nhiên, đột quỵ có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Kết quả của một dữ liệu chăm sóc sức khỏe cho thấy 34% trường hợp đột quỵ nhập viện trong năm 2009 là dưới 65 tuổi. Một nghiên cứu năm 2013 chỉ ra, khoảng 15% số người đột quỵ do thiếu máu cục bộ ở tuổi thanh niên và thanh thiếu niên. 

Các nhà nghiên cứu lưu ý, yếu tố nguy cơ đột quỵ bao gồm tăng huyết áp, tiểu đường, béo phì, rối loạn lipid và sử dụng thuốc lá là một trong những tình trạng chung phổ biến nhất ở nhóm tuổi này.

Hiểu lầm 7: Mọi cơn đột quỵ đều có triệu chứng 

Không phải mọi cơn đột quỵ đều có triệu chứng. Một số nghiên cứu cho thấy đột quỵ không có triệu chứng phổ biến hơn nhiều so với các trường hợp có triệu chứng. Một nghiên cứu chỉ ra, trong số hơn 11 triệu ca đột quỵ vào năm 1998, 770.000 ca có triệu chứng, trong khi gần 11 triệu ca là không. Bằng chứng cho các ca đột quỵ âm thầm này chỉ được phát hiện thông qua quét MRI, cho thấy dấu hiệu dưới dạng các đốm trắng từ mô sẹo, sau khi não xảy ra hiện tượng tắc nghẽn hoặc vỡ mạch máu.

Hiểu lầm 8: Đột quỵ thoáng qua không đáng sợ 

Theo tiến sĩ Ortiz, đột quỵ thoáng qua nguy hiểm không kém đột quỵ, bởi nó là điềm báo của một cơn đột quỵ lớn. Do đó, khi gặp bất cứ triệu chứng nào của đột quỵ cấp tính, dù là thoáng qua, nên điều trị và xử lý trực tiếp để ngăn chặn hậu quả sâu hơn. 

Hiểu lầm 9: Đột quỵ luôn gây tàn phế 

Đột quỵ là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế lâu dài nhưng không phải ai bị đột quỵ cũng tàn phế, liệt hoặc yếu đi. Các thống kê cho thấy đột quỵ dẫn đến giảm khả năng vận động ở hơn 1/2 số bệnh nhân sống sót sau đột quỵ, từ 65 tuổi trở lên.

Việc bệnh nhân đột quỵ có liệt hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ví dụ số lượng mô não bị ảnh hưởng và khu vực bị ảnh hưởng. Ví dụ, tổn thương não trái sẽ ảnh hưởng đến phần bên phải của cơ thể và ngược lại.

Trong trường hợp đột quỵ xảy ra do vấn đề từ não trái, cơ thể có thể bị liệt nửa bên phải, gặp vấn đề về giao tiếp, hành vi chậm, trí nhớ giảm... Trong trường hợp đột quỵ xảy ra do vấn đề từ não phải, người bệnh có thể bị vấn đề về thị lực, giảm trí nhớ... 

Hiểu lầm 10: Quá trình phục hồi sau đột quỵ diễn ra thuận lợi 

Quá trình hồi phục sau đột quỵ có thể mất vài tháng, nếu không muốn nói là nhiều năm. Tuy nhiên, nhiều người có thể không hồi phục hoàn toàn. Trong số những người bị đột quỵ, chỉ khoảng 10% hồi phục hoàn toàn, 10% yêu cầu chăm sóc lâu dài, trong khi 25% phục hồi với những khiếm khuyết nhỏ, 40% còn lại suy giảm ở mức độ trung bình đến nặng. 

6 dấu hiệu xuất hiện trên cơ thể cảnh báo nguy cơ đột quỵ, ung thư, thậm chí vô sinh
/Khi có vấn đề không ổn bên trong, cơ thể có thể phát tín hiệu cảnh báo từ rất sớm. Thường xuyên lắng nghe, quan sát cơ thể và nhận ra những dấu hiệu...

Sống khỏe

Thùy Linh (Theo Medicalnewstoday) 
Nguồn: [Tên nguồn]

Tin liên quan

Tin bài cùng chủ đề Đột quỵ